Phật Giáo Việt
Nam
Đang Lụi Tàn Hay
Khởi Sắc?
Trần Kiêm Đoàn
Năm mới, nhân đọc
một bài viết cũ của tác giả Nguyễn Hữu Liêm vừa
mới được đăng lại trên báo điện tử Phật Giáo
Việt Nam, Xuân Tân Mão 2011, nhan đề là: “Tính Không
và Thượng Đế: Từ thoái trào Phật giáo đến cao
trào Tin lành ở Việt nam”
[1] đồng thời, có tiếng nói tương tự của một
tác giả nước ngoài, Allen Carr, qua bài điểm
sách với nhan đề khá... hấp dẫn: “Lên Kế Hoạch
Ngày Tàn của Phật Giáo”
[2], kẻ viết bài nầy xin được góp đôi lời.
Có chăng đạo Phật
đang thoái trào và sẽ có một ngày tàn của Phật
giáo. Ngày đó còn bao xa và sẽ như thế nào?
Đem chuyện ký ức
của hàng chục thế kỷ để nói chuyện cường điệu
biển trời qua vài trang giấy thì cũng chỉ là một
cuộc chơi đuổi bắt phù dung. Hay có khá hơn
chăng thì cũng chỉ là “phù thế giáo một vài câu
thanh nghị” theo tinh thần kẻ sĩ Nguyễn Công Trứ
giữa đời. Ước mong, qua hình thức đối thoại hay
độc thoại nho nhỏ nầy sẽ mang lại chút tinh thần
hào sảng và thống khoái nhẹ nhàng như gặp bạn
hiền chia sẻ một “chung trà tâm sự” đầu năm.
*
* *
Bài viết của cả
hai tác giả, Allen Carr và Nguyễn Hữu Liêm đều
có chủ đích nói lên thực trạng đáng quan ngại về
Phật giáo trước sự vận động truyền đạo và cải
đạo quy mô và năng động của các tôn giáo viễn
chinh thế giới. Dẫu đồng ý hay không, ý kiến của
họ cần được lắng nghe, nhưng đồng thời cũng cần
được góp ý.
Lên Kế hoạch cho
Ngày Tàn của Phật giáo (Planning the Demise of
Buddhism) là nhan đề một bài điểm sách của
Allen Carr. Đây là bài viết nhận định về cuốn
sách “Những Nhóm Dân Tộc trong Thế Giới Phật
giáo: Cẩm Nang của Tín Đồ Tin Lành” (Peoples in
the Buddhist World: A Christian Prayer Guide)
của Paul Hattaway.[3]
Theo
Allen Carr, cuốn sách “Những nhóm dân tộc trong
thế giới Phật giáo: Cẩm nang của tín đồ Tin Lành”
của Hattaway, tuy là một cuốn sách viết về đạo
Phật nhưng chẳng nói gì về lý thuyết nhà Phật cả.
Suốt 453 trang của cuốn sách, tác giả Hattaway
chủ yếu nói về nỗ lực và các phương thức vận
động, lôi kéo và chinh phục mới – quyết liệt và
năng động nhất – để truyền đạo và tìm cách cải
qua đạo Tin Lành đối với thế giới đạo Phật tại
châu Á. Đối tượng được liệt kê và điều nghiên cụ
thể là 316 nhóm dân tộc trải dài và vòng quanh
từ Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa, Mông Cổ, Đại Hàn,
Nhật Bản, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Cam Bốt, Miến
Điện, Tích Lan và các vùng xa, vùng sâu nằm
giữa biên giới núi rừng của các nước châu Á.
Hattaway nhấn
mạnh và đưa ra nhiều dẫn chứng cụ thể trong tác
phẩm rằng, với cấu trúc lỏng lẻo của một hệ
thống tôn giáo quá tự do, các tu sĩ và tín đồ
Phật giáo là những đối tượng rất dễ chinh phục
cho những nỗ lực vận động cải đạo. Nếu cộng thêm
vào đó, Tăng già không hòa hợp gây trở ngại cho
tứ chúng đồng tu thì kiến trúc của tổ chức Phật
giáo rất dễ chao đảo và nghiêng đổ trước những
cơn gió quét của thời đại. Allen Carr tỏ ra quan
ngại về khả năng lụi tàn của Phật giáo. Theo ông,
nếu không có một sự chấn hưng bắt kịp thời đại
thì trước sự tấn công cải đạo, Phật giáo sẽ rất
khó vững vàng truyền thừa hành đạo trong một
tương lai trước mắt.
Nguyễn Hữu Liêm
(NHL) là một luật sư, một giáo sư triết học đang
hành nghề tại Hoa Kỳ. Ông cũng là một cây bút về
nhiều đề tài rất tế nhị và nhạy cảm thuộc thể
loại chính luận. Do có nhiều dịp tiếp cận với
thực tế sinh hoạt chính trị, xã hội, giáo dục và
tôn giáo Việt Nam trong và ngoài nước, nên bài
viết của ông vừa có dạng nghiên cứu, vừa mang
tính quan sát, bình luận và hiện thực phê phán.
Với Nguyễn Hữu
Liêm, quan điểm triết học đóng vai trò chủ đạo
trong bài viết về đạo Phật. Mở đầu bài viết,
NHL xác định hiện tượng “thoái trào” – mạt pháp
(?!) – của đạo Phật đang xảy ra như sau: “1.
Trí thức Phật tử Việt ở hải ngoại bỏ chùa để
theo tu học các giáo phái khác. 2. Quần chúng ở
trong nước, ở các vùng thôn quê vốn có ảnh hưởng
Phật giáo, nay đi theo đạo Tin lành ngày càng
đông.”
Tiếp
theo, NHL nêu lên động lực làm cho đạo Phật Việt
Nam thoái trào là vì giáo lý nhà Phật xa vời,
khó hiểu như một hiện tượng biểu dương chữ nghĩa,
không đáp ứng được khát vọng tri thức và nhu cầu
tâm linh của những con người trong thời đại mới.
Ông viết: “Có nhiều lý do cho sự thoái trào này.
Trong bài này tôi chỉ nêu lên hai vế của một vấn
đề khái niệm và ngôn ngữ: cái gọi là “Tính Không”
và “Thượng Đế”. Khi giáo lý nhà Phật - vốn được
hiểu bởi quần chúng - phủ nhận “Thượng Đế” và
“linh hồn”, thì đối với tâm thức khát khao niềm
tin của con người thời đại, Phật giáo không còn
hấp dẫn đối với họ. Trên phương diện học thuật,
khi “Tính Không” trở thành một đối thể tri thức
cho trí thức Phật giáo, khi trò chơi ngôn ngữ
nay đã trở thành một “bình ruồi” (nói theo
Wittgenstein) mà kẻ tham dự không thoát ra được,
Phật giáo chỉ còn là một hoài niệm hay là một tự
ái bản sắc cá nhân.”
Mở đầu xây dựng
luận điểm, NHL đã dùng quan điểm triết học ứng
dụng (applied philosophy) của trường phái chữ
nghĩa thực dụng Wittgenstein, Heidegger, Dewey
và Marx
[4]vào thời kỳ những năm 1930 để làm phương
tiện nhận định và phân tích về khái niệm thuộc
phạm trù tri thức luận như Tánh Không của đạo
Phật. Qua lăng kính “ứng dụng”, NHL đã thấy lý
Tánh Không của đạo Phật cũng tương tự như cái
bình ruồi của Wittgenstein(!).
Với Wittgenstein,
biểu tượng bình ruồi là hình ảnh những con ruồi
nằm trong bình thủy tinh, thấy cảnh vật xung
quanh nhưng không bao giờ đụng tới được. Đây là
một cách hình tượng hóa về tính chất phù phiếm;
về trò chơi chữ nghĩa xa vời, viễn mơ mà chẳng
thực hiện được điều gì cụ thể trong thực tế của
hệ thống triết học cổ điển. Ludwig Wittgenstein
cho đó là một hình thái ngôn ngữ bị lâm nguy
giữa hai cực đoan ù lì và thánh hóa (idle and
idol).
Wittgenstein và
những triết gia cùng khuynh hướng đã ra sức cổ
xúy cho một nền triết học ứng dụng, đem tư tưởng
và chữ nghĩa vào đời sống hiện thực để góp phần
xây dựng và cải tạo xã hội. Chính bản thân triết
gia Wittgenstein cũng đã có lúc xông xáo “áp
dụng” tư tưởng triết học thực dụng của ông bằng
cách ra khỏi tháp ngà sách vở, bắt tay vào cuộc
sống hiện thực, dạy học cho trẻ con ở những vùng
quê xa xôi, phụ làm vườn... và những công việc
tay chân.
Về mặt kinh điển
và nguyên lý, “Tánh Không” là tư tưởng chủ đạo,
là trái tim của toàn bộ hệ thống triết lý Phật
giáo. Cả ba pháp thế gian (phàm nhân), pháp quán
niệm thế gian (hành giả) và pháp xuất thế gian (bậc
chứng ngộ) đều lấy Tánh Không làm cửa ngõ đi vào
Tánh Phật. Giới Phật tử xuất gia cũng như tại
gia đang tụng niệm, suy niệm và quán niệm trong
quá trình tu học và hành đạo hàng ngày trực chỉ
Tánh Không. Đó không phải là “cái gọi là” làm
bánh vẽ trang trí tri thức mà là “nguồn khai
phóng” xác tín và độc sáng của đạo Phật để làm
căn bản xây dựng cách nhìn về về vũ trụ và con
người. Trí tuệ ‘bát nhã’ không phải là một trò
chơi chữ cao cấp theo kiểu triết học thuần lý
phương Tây mà là một quá trình nhìn sâu, nhận rõ,
nắm bắt, dùi mài, tu chứng và ứng dụng tuệ giác
vào công cuộc xả ly tham vọng và cứu khổ cho
mình và cho đời. Người hiểu Đạo (Phật) không
phải là những con ruồi bị nhốt trong bình thủy
tinh “thấy vậy mà không rớ vào được” kiểu
Wittgenstein. Ngược lại, người theo đạo Phật nhờ
hiểu đạo nên đủ sức mạnh để đập vỡ cái bình của
vô minh và dục vọng để tìm cầu giải thoát và an
lạc. Tánh Không thực sự là một triết lý sống
(living philosophy) chứ không phải là một sản
phẩm hoang tưởng để đi tìm đất ứng dụng cho bầy
ruồi của Wittgenstein như theo lối suy diễn của
tác giả NHL.
Để góp ý một cách
cởi mở và thoải mái với Nguyễn Hữu Liêm, Allen
Carr và luôn cả với Paul Hattaway (nội dung
tương tự bài này cũng được viết lại bằng tiếng
Anh và sẽ gởi đến hai tác giả liên hệ), xin được
chia bài viết nầy thành 4 phần nhỏ để tiện theo
dõi:
1. Đi tìm Thượng
Đế
2. Thượng Đế,
Tánh Không.
3. Ngày tàn của
đạo Phật (?!)
4. Tánh Phật giữa
đời thường.
Phật Giáo Việt
Nam Đang Lụi Tàn Hay Khởi Sắc?
Phần 1: Đi Tìm
Thượng Đế
Thượng Đế là ai?
Cho đến bây giờ
và có lẽ là mãi mãi, Thượng Đế không thể là một
thực thể hay đối tượng nào khác hơn: - Là Chân
Lý là Sự Thật.
Nhưng lại không
có cái thước đo tuyệt đối của chân lý. Chẳng hạn
như với nhị nguyên luận của Pascal thì những gì
phía bên này dãy Pyrenees cho là chân lý thì bên
kia là sai lầm. Thay đổi những định kiến tư
tưởng còn khó hơn là dời chỗ dãy Pyrenees.
Khi giả dối, độc
ác, áp bức, hoang tưởng... và vô số cái vọng
động và vọng tưởng xấu xa, tiêu cực, đen tối mất
đi thì ánh sáng trong ngần xuất hiện: Sự Thật
hiển lộ. Sự Thật là Sự Thật. Không có một khái
niệm hay một định nghĩa nào hay hơn, khác hơn
ngoài Sự Thật chính là Sự Thật. Đó là chân lý
tuyệt đối mà ai muốn hình dung hay gọi bằng một
danh xưng nào tùy nghi phương tiện thì cứ việc
tự do nhưng đừng bắt buộc người nầy phải nói
nhại theo người nọ mới tìm được chân lý đích
thực.
Xin được gọi Sự
Thật là Thượng Đế như một quy ước ngôn ngữ tạm
thời.
Hệ thống tôn giáo
tin vào Thượng Đế được xem như cổ xưa nhất của
loài người là Ấn Độ giáo (Hinduism). Ấn Độ giáo
tin Brahman là Thượng Đế đã căn cứ vào Vệ Đà và
Áo Nghĩa Thư (Upanishad là kinh văn có cả mười
nghìn năm trước) đã dùng phương pháp Phủ Định
Luận (Negative theology hay Apophatic theology)
[5] để nói vế khái niệm Thượng Đế. Trong Áo
Nghĩa Thư, ngôn từ chính để nói về Thương Đế là
“Neti Neti”. Nghĩa là “Không phải cái nầy mà
cũng Chẳng phải cái khác”. Ngôn ngữ, quy ước và
sự hiểu biết nhỏ bé, cạn cợt của con người về
Thượng Đế không đủ khả năng diễn đạt về hình
tượng và yếu tính của một Sự Thật Uyên Nguyên
nên phải tạm gọi bằng ngôn ngữ dân gian là
Thượng Đế. Đức Phật đã thuyết về Sự Thật tuyệt
đối đó là Tánh Không. Tương tự như thế, Lão Tử
đã gọi Thượng Đế là “Đạo”: Đạo mà hiểu theo
khái niệm của đời thường thì chẳng phải là Đạo (Đạo
khả đạo phi thường Đạo).
Về căn bản, Phủ
Định Luận về Thượng Đế không dám xác định bất cứ
điều gì về Thượng Đế nhưng chỉ chối bỏ những gì
là tiêu cực theo cái hiểu của thế nhân nơi Ngài
(như Thượng Đế không độc ác, không ích kỷ, không
tham lam, không nhỏ nhen, không dối trá...). Phủ
Định Luận được sử dụng nghiêm cẩn trong các tôn
giáo thuộc đạo Chúa đưa ra lý giải rằng:
- Chẳng có khái
niệm hiện hữu hay không hiện hữu nào của loài
người áp dụng được khi nói về Thượng Đế. Thượng
Đế ở ngoài mọi khái niệm hiện hữu và không hiện
hữu của nhân loại.
- Thượng Đế không
xấu, không tốt, không phàm, không thánh, không
nhận thức được, không hình dung được... theo tri
thức của con người.
Như thế thì “Tánh
Không” là “Sự Thật Uyên Nguyên”, là “Thượng Đế”
vì đó là một Tri Thức không có một tự tánh
thường hằng bất biến mà tri thức giới hạn của
con người có thể hiểu được. Quá trình sáng tạo
ra vũ trụ và thế giới là một hợp duyên do duyên
khởi mà thành.
Thế giới phương
Tây bị tha hóa hay trở thành xa lạ với phương
Đông vì truyền thống thâm căn cố đế khư khư giữ
độc quyền về khái niệm Thượng Đế trong chiếc nôi
văn hóa châu Âu. Trong khi Thượng Đế vừa là một
Đáp Số mà cũng vừa là một Ẩn Số hay nói đúng hơn
là “một đáp số của một ẩn số không thể trả lời
mà chỉ có tin hay không tin vô điều kiện” đối
với thế giới loài người. Đáp số: Vì ngỡ như là
đã nắm được Sự Thật. Ẩn số: Vì vẫn còn hướng
vọng về Sự Thật bằng cái Tâm thường xuyên dao
động và cái Ý thường xuyên thay đổi.
Từ khi có bóng
người xuất hiện, đối diện với những hiện tượng
và năng lực thiên nhiên như nắng mưa, sấm sét,
bão tố, lũ lụt… thì vô hình trung, khái niệm và
hình tượng của một nguyên nhân gây ra hiện tượng
và năng lực đó được nghĩ đến, được hình thành.
Người cổ sơ đã biết tìm về sức mạnh suối nguồn
uyên nguyên đó qua các biểu tượng trung gian như
thờ lạy một ngọn núi, một tảng đá, một ao hồ,
một con sông, một ông hay bà thần sấm sét mưa
nắng… tưởng tượng. Đấy là những nhà “tiên tri”
đầu tiên của một hình thức tôn giáo phiếm thần
hay bái vật giáo mà lịch sử tiến hóa của nhân
loại còn ghi khắc cụ thể.
Xã hội và tri
thức con người càng tiến bộ thì đời sống tâm
linh cũng trở nên vi tế và phức tạp hơn. Nhiều
giáo chủ và hệ thống tôn giáo ra đời dưới hình
thức sử thi truyền khẩu, sấm ký, bùa chú, thánh
thư, kinh điển. Tuy hình thức có khác, nhưng bản
chất tâm linh vẫn là Chung Nhất (Oneness) khi
tri thức con người phải dừng lại ở một giới hạn
quá tầm năng lực tưởng tượng; như khi nói về độ
lớn của không gian vô cùng và chiều dài của thời
gian vô tận chẳng hạn. Ngay cả khoa học ngày
nay cũng phải bó tay khi đụng đến câu hỏi là còn
có gì bên kia khoảng cách vũ trụ xa hàng tỷ tỷ
tỷ… năm ánh sáng. Giới hạn tri thức trở thành
một vấn nạn đòi hỏi phải có đáp án. Đáp án đó
là một Khái Niệm Mới. Khái Niệm Mới lại trở
thành một Ẩn Số. Có thể gọi đó là một
“Ẩn-Số-Đáp-Số-Tín-Ngưỡng” mà không sợ sai vì
chẳng ai có chứng lý nào ngoài niềm tin thuần
túy của chính mình để làm tiêu chuẩn đưa ra phản
bác hay thừa nhận cả. Mọi khái niệm trong dạng
“Ẩn-Số-Đáp-Số-Tín Ngưỡng” đều có giá trị ngang
nhau: Lớn - bé, cao - thấp, đen - trắng, mạnh -
yếu… đều giống nhau vì không thể hình dung hay
so sánh được. Con người từ cổ sơ cho đến ngày
nay đều có quyền tha hồ gọi Ẩn-Số-Đáp-Số đó là
Uyên Nguyên, là Suối Nguồn Vũ Trụ, là Đạo, là
Điện Quang, là Ánh Sáng, là Vua Trời, là Phạm
Thiên, là Thượng Đế, là Ông Trời… là bất cứ một
danh xưng tôn quý, vĩ đại, cao cả đến mức nào
đều đúng với lòng tôn kính cao viễn tuyệt đối
của từng người, từng nhóm, từng phái trong tập
thể loài người.
Mỗi dân
tộc, mỗi giống người, mỗi thời đại, mỗi hệ thống
tôn giáo, mỗi cá nhân tin vào Thượng Đế đều có
một khái niệm riêng về Thượng Đế của mình.
Thượng Đế của đạo Ấn, đạo Hồi, đạo Do Thái, đạo
Thiên Chúa, … hay ông Trời của dân gian Việt
Nam, thần Thái Dương của Nhật, ông Bụt trong cổ
tích là những đấng Thượng Đế khác nhau. Ai cũng
tự cho rằng, Thượng Đế mà mình tin tưởng mới
chính là Thượng Đế “thật” làm chủ tể càn khôn
và bao trùm tất cả. Còn “Thượng Đế” trong các hệ
thống đức tin tôn giáo khác chỉ là những nhân
vật phiếm thần thấp kém hơn Thượng Đế trong tôn
giáo của mình.
Trong tác phẩm
Khoa Học Lý Thú (The Joyful Science)[6],
Friedrich Nietzsche, triết gia thời danh của thế
kỷ 19, đã kể câu chuyện rằng, có một gã điên
điên, khùng khùng vào một buổi sáng nọ chạy vào
chợ la khóc và gào lên: “Tôi đang đi tìm Thượng
Đế đây nè!” Đám đông hỏi lại gã rằng, thế gã
thực sự không biết Thượng Đế đã đi đâu hay sao,
gã nín khóc và đờ mặt ra ngơ ngác hỏi lại:
“Thượng Đế đâu rồi nhỉ?” Đám đông trả lời:
“Chúng ta, gồm cả tôi và anh nữa, đã giết chết
Thượng Đế rồi, còn đâu!” Qua câu chuyện, phải
chăng Nietzsche ngụ ý nói rằng Thượng Đế hiểu
như một nhân vật nào đó trong đầu óc nhỏ bé của
con người không hiện hữu, nên muốn kêu gọi con
người phải tự mình giải thoát cho mình ra khỏi
sự trói buộc hà khắc của thần quyền muốn nhốt cả
bầu trời lồng lộng trong chiếc lồng nhỏ hẹp của
tư duy giới hạn, một chiều.
Cho đến nay, chỉ
có đạo Thiên Chúa La Mã là hình tượng hóa Thượng
Đế qua hình ảnh con người. Đó là chân dung của
Thượng Đế qua hình ảnh một ông lão phương phi,
da trắng được thiên tài điêu khắc và hội họa
Michelangelo minh họa trên trần nhà thờ Sistine
ở tòa thánh La Mã. Những tôn giáo tin thờ Thượng
Đế khác thì cho rằng Thượng Đế là một đấng vô
hình vô ảnh không thể hình dung hay luận bàn
được mà chỉ có tin kính và thờ phụng.
Một số những nhân
vật nổi tiếng trong thế giới phương Tây như
Charles Darwin, Arthur Schopenhauer, Karl Marx,
Sigmund Freud, Fryodor Dostoievsky, Jean-Paul
Sartre, Albert Camus… cũng trực tiếp phủ nhận
hay quay lưng hoặc có cái nhìn xa lạ với một
hình tượng Thượng Đế đặt định theo nhãn quan của
thế lực thần quyền kinh viện châu Âu.
Tóm lại, ai thấy
được Thượng Đế trong tâm thức của mình thì phúc
cho họ vì tin điều mình tin. Ai không thấy được
Thượng Đế trong tâm thức của họ thì cũng phúc
cho họ luôn vì họ tin điều mình không tin. Cả
hai “týp” người thành thật với chính mình – tin
điều mình tin hay tin điều mình không tin – đều
đáng được trân trọng chúc phúc. Chỉ sợ những kẻ
dối gạt chính mình và dối trá luôn với Thượng Đế
mới đáng nghi ngại mà thôi.
Mỗi niềm
tin, mỗi tôn giáo đều có khuynh hướng gọi tên,
định nghĩa và giải thích một Ngọn Nguồn và cũng
là Nguồn Cội mà con người từ đó khởi đầu và sau
khi chết trở về lại là ở đâu, là cái gì, là ai,
là làm sao, là khi nào… Trong sự im lặng của thế
giới khách quan, dường như có một Suối Nguồn Vũ
Trụ. Suối Nguồn đó chỉ có thể cảm nhận bằng
năng lực tâm linh, bằng đầu óc tưởng tượng, bằng
niềm tín cẩn thiêng liêng bên ngoài lý tính. Đấy
chính là Tâm Lý Tôn Giáo có ngay từ khi con
người mới ra đời và phải đối diện với những hiện
tượng thiên nhiên và siêu nhiên. Khi sự kế thừa
của tri thức đạt đến một mức độ tinh vi và có tổ
chức thì niềm tin tâm linh cổ sơ biến thành tôn
giáo. Đối diện với thiên nhiên khi khoan hòa,
khi bão liệt với muôn vàn hình thức biểu hiện
lập đi lập lại và kéo dài đến vô cùng, con người
bỗng cảm thấy run sợ và yếu đuối khi nhìn lại
từng cuộc đời giới hạn và ngắn ngủi của mình.
Con người dựa vào nhau, nương tựa đời sống tâm
linh với nhau để tìm về Suối Nguồn Vũ Trụ qua
hình thức tôn giáo.
Việc bàn
đến sự liên quan của thần thánh và con người đã
xảy ra từ 9000 năm trước trong kinh Vệ Đà của Ấn
giáo và trong các thần thoại cổ Hy lạp và La Mã.
Nhưng hình ảnh một Thượng Đế mang hình ảnh con
người hay con người mang hình ảnh Thượng Đế xuất
hiện trong tín lý của đạo Hồi, đạo Do Thái và
đạo Thiên Chúa.
Bàn về
Thượng Đế, sự đồng nhất hóa Danh và Đạo – mà
theo Lão Tử thì hễ có cái nầy thì không có cái
kia – hay tách bạch rạch ròi hai khái niệm nầy
rất dễ đưa tới cực đoan.
NHL viết: Cái
khuyết điểm lớn cho khái niệm “Thượng Đế” hay
“Chúa Trời” trong các tôn giáo có nguồn gốc từ
Do Thái giáo là sự nhân cách hóa và khách thể
hóa tính thể này - một ý nghĩa về một tên gọi và
biểu tượng thiếu sót và sai lạc vì nó bỏ quên
“chiều sâu thượng đế” bên trong mỗi cá nhân. Hãy
nhớ rằng trong Tân Ước, chúa Jesus đã tuyên bố:
“Một điều đã được viết rõ ràng trong luật đạo
(Psalm của Do thái giáo) mà ta muốn nói, ‘Các
ngươi đều là thượng đế (gods)’” (John 10). Lịch
sử của Thiên Chúa giáo là một quá trình lầm lẫn
về ý nghĩa của Thượng Đế. Hãy đọc các bản dịch
Tân Ước bằng Việt ngữ thì sẽ thấy được sự nhầm
lẫn cơ bản này. Chúng ta không thể lấy cái sai
lầm để đo lường chân lý được.
Ở đây không có
thước đo sai lầm hay chân lý trong ý niệm thuần
túy mà cần xác định thế đứng danh hay đạo (Lão);
tướng hay tánh của pháp thế gian và pháp xuất
thế gian (Phật) để nhìn về khái niệm Thượng Đế.
Khi nhận định như
thế, Nguyễn Hữu Liêm đã đứng trên khía cạnh
triết học duy lý hơn là nhìn về tính mặc khải (không
thể nghĩ bàn) trong ý hướng xác lập một sự tương
tác giữa con người và đức tin Thượng Đế trong
các tôn giáo vừa nói. Cả 3 tôn giáo Hồi, Do Thái
và Thiên Chúa đều xác định sự hiện hữu của
Thượng Đế bằng sự xác lập mối tương quan giữa
đấng cứu rỗi (Thượng Đế) và kẻ được cứu rỗi (con
người). Một ý trong Tân Ước mà NHL trích dẫn về
lời chúa Jesus “các ngươi đều là Thượng Đế” đã
được nhà thần học Irenaeus xứ Lyon, sống vào
thế kỷ thứ 2, minh giải rằng: "Cha là Thiên
Chúa, Con cũng là Thiên Chúa, vì bất cứ ai sinh
ra từ Thiên Chúa là Thiên Chúa". Hay như Justin
Martyr so sánh: "Cũng gần giống như lúc chúng ta
quan sát một ngọn lửa mới được lấy ra từ một
ngọn lửa đang cháy đỏ, ngọn lửa mới tự tồn tại
bên cạnh ngọn lửa gốc chẳng hề bị hao hụt hay
mất đi một mảy may vì chia lửa. Cũng vậy, Thiên
Chúa được sinh từ Cha là cha của muôn loài". Sự
xác định này có nghĩa là con người do Thượng Đế
sinh ra nên mang bản thể của Thượng Đế chứ không
thể nào con người là Thượng Đế. Cũng tương tự
như thế, khe suối mang bản chất “nước” của đại
dương chứ không thể nào là đại dương.
Ý niệm mà NHL gọi
là “chiều sâu Thượng Đế” bên trong mỗi cá nhân
cũng không khác Phật tánh trong mỗi sinh vật. Và
nếu có chăng hiện tượng hay khái niệm “nhân cách
hóa – khách thể hóa” Thượng Đế thì cũng chỉ là
phương tiện hay “pháp môn” để khai mở tánh
Thượng Đế, tánh Phật, tánh Tâm linh, tánh Thường
tại có sẵn trong mỗi con người.
Phật Giáo Việt
Nam Đang Lụi Tàn Hay Khởi Sắc?
Phần 2: Thượng
Đế, Tánh Không
Mỗi thực
thể vật lý hay mỗi hệ thống tín lý có lịch sử
tồn tại lâu dài, ít nhất cũng chứng tỏ được sức
mạnh có thật qua thử thách của thời gian. Sức
mạnh nội tại của một thực thể là một thực lực
không đứng yên một chỗ để chống chọi với sự tàn
phá từ bên trong lẫn bên ngoài mà phải quyền
biến linh hoạt. Khả năng trường tồn không chỉ
đơn phương chống lại sự phá hủy mà còn là khả
năng tái tạo, xây dựng lại sau khi bị phá hủy.
Đạo Phật
đã ra đời và tồn tại hơn 2500 năm; cũng đã trải
qua bao biến đổi tồn vong, hưng phế dưới nhiều
hình thái và hoàn cảnh khác nhau. Sự có mặt của
đạo Phật thường được xem hay bị xem như một "biệt
lệ" trong hệ thống tôn giáo nhân loại: Trong khi
tất cả các tôn giáo khác đều dồn hết mọi phương
tiện thế gian và sức mạnh tâm linh để tiến đến
cái “Hiện Hữu” được kinh sách của họ xác quyết
một cách rõ ràng, sừng sững như một cứu cánh sau
cùng thì ngược lại, đạo Phật tiến đến cái Rỗng
Lặng (Tính Không) như một chân lý giải thoát
cùng tột. Các tôn giáo khác động thì Phật giáo
tĩnh. Bên động hô hào tấn công chiếm lĩnh thì
Phật giáo chủ trương an nhiên tự tại, nhìn rõ
bản thể rỗng lặng của chính mình và đối vật để
buông xả không dính mắc. Sự tĩnh mặc quán chiếu
đầy tích cực bên trong nầy thường bị những đầu
óc chật chội, đầy ắp những nguyên lý luận lý học
phương Tây suy diễn một cách sai lầm và hời hợt
là “tiêu cực”, là “phủ định” ý nghĩa sinh động
của đời sống đang trôi chảy.
Trước khi
đi vào trọng tâm của vấn đề, tưởng cũng cần nêu
dẫn những giới hạn tất nhiên mà trong một hoàn
cảnh cụ thể nào đó, khó tránh khỏi:
Phương
tiện tương đối đang được sử dụng để bàn về những
chân tính tuyệt đối như Thượng Đế và Tánh Không
là ngôn ngữ. Trong khi đối với tinh thần truyền
thừa của Phật giáo, ngôn ngữ được xem là phương
tiện “hữu lậu” (lỏng lẻo, rơi vãi, không mô tả
hết được bản chất đích thực) dễ gây ra nhiều
hiểu lầm và biên kiến nhất. Một nghệ sĩ vận
dụng ngôn ngữ thi ca tài hoa của dân tộc, đồng
thời cũng là một Thiền giả như cụ Nguyễn Du đã
phải thú nhận sự bất lực của ngôn ngữ khi đọc
kinh Kim Cang luận về Tánh Không:
“Ngã độc Kim
Cương thiên biến linh
Kỳ trung áo chỉ
đa bất minh
Cập đáo Phân Kinh
Thạch Đài hạ
Chung tri: vô tự
thị chân kinh”.
dịch:
“Kim Cương đọc
đến ngàn lần
Mông lung ảo diệu
như gần như xa
Thạch Đài đến đó
hiểu ra:
Không lời không
chữ mới là chân kinh”
(TKĐ)
Hai cột mốc ghi
dấu ấn đậm nhất trong lịch sử Thiền tông Phật
giáo Trung Quốc mà Phật giáo Việt Nam chịu ảnh
hưởng sâu đậm hơn cả là sự xuất hiện của Sơ Tổ
Đạt Ma và Lục Tổ Huệ Năng thì cả hai đều khẳng
định sự bất lực của ngôn ngữ: “Không dùng kinh
văn. Ở ngoài chữ nghĩa. Thẳng tới chân tâm.
Thấy tánh thành Phật.”
Trong khi đó, tất
cả các hệ thống tôn giáo khác đều cần một đấng
thần linh cao cả nhất như Thượng Đế, Vua Trời,
đấng Toàn Năng, thần Tối Cao… cùng với một pho
Thánh Kinh, một nhà Tiên Tri và thường khi có
thêm phép lạ. Đạo Phật phủ nhận một nguyên nhân
đầu tiên sáng tạo ra muôn vật và hệ luận tất
nhiên là không hề có một đấng thần linh uyên
nguyên và chủ tể nào đứng ra sáng tạo muôn vật,
muôn loài như thế.
Bởi vậy, trong
sinh hoạt tín ngưỡng, tâm linh, Đạo Phật không
hướng lên trên, không vọng ra ngoài cầu xin ơn
cứu rỗi của một tha lực đầy quyền năng hay tối
thượng nào cả mà chủ trương quay vào bên trong
để tìm tòi, soi rọi, nhận ra và tiếp cận với "đấng"
cao cả nhất nằm trong chính mình: Đó là chân tâm,
là Phật tánh, là bản lai diện mục, là tự tánh
thường hằng, là thật tánh tuyệt đối…hay nói cho
đơn giản hơn là sự hiểu biết rạch ròi về Sự Thật.
Đó chính là cái Thật Tuyệt Đối của mỗi con người
mà mọi cá thể chúng sinh và vạn vật nói chung
đều có sẵn từ cội nguồn của sự hiện hữu trong
dòng sống trôi chảy triền miên từ điểm
không-có-khởi-đầu đến điểm không-có-kết-thúc.
Đấy không phải là một sự phủ định theo cái hiểu
máy móc đời thường mà là một sự minh định, một
sự xác tín từ trạng thái “ngỡ như là” của giả
tướng để tìm đến bản thể “thực là”của thật tánh
nơi mọi loài và mọi vật.
Và, đây cũng
chính là điểm then chốt cho những người muốn xây
dựng luận cứ cho rằng, đạo Phật không phải là
một tôn giáo mà là một hệ thống triết lý vì 4 lý
do:
(1) Đức Phật
không phải là một đấng thần linh và đạo Phật
không tin vào một Thượng Đế;
(2) Đạo Phật giúp
con người giác ngộ (enlightment) chứ không phải
là cứu rỗi (salvation);
(3) Đạo Phật chủ
trương vô ngã (nonself) và phủ nhận sự hiện hữu
của linh hồn bất biến, thường tại;
(4) Đạo Phật
không chinh phục và thuyết phục người theo bằng
bùa chú, tín điều hay phép lạ.[7]
Nơi đây, cũng nên
dừng lại một chút để nhìn về đạo Phật như một
tôn giáo.
Trong chánh niệm
tánh không và duyên khởi, lý nhà Phật tin vào
nguồn năng lượng vô biên của hợp duyên. Đó là
nguồn năng lượng do sự kết tập qua nhiều đời
nhiều kiếp mà thành. Đó chính là “nhiên liệu”
kích hoạt động cơ của mọi hành động tạo nghiệp,
hành nghiệp hay giải nghiệp. Với những bậc đã tu
chứng từ vô thủy thì nguồn năng lượng lành không
đong đếm nổi. Đó là cái “suối nguồn nhiên liệu
tâm linh” cảm ứng khắp mọi thời, mọi nơi và mọi
hoàn cảnh. Chư Phật và chư Bồ tát là hiện thân
của kho năng lượng lành. Khi có người thành tâm
cầu xin, tức là “giải mã” để mở khóa cho nguồn
năng lượng lành tuôn vào nơi đang cạn kiệt. Ví
như lửa, điện, nước, sóng từ trường... có sẵn
thường trực khắp nơi nhưng chỉ xuất hiện thành
mây, mưa, sấm, chớp, hút, đẩy... khi có một điều
kiện hợp duyên nào đó đưa tới. Đức Phật thường
nhắc đến hằng hà sa số chư Phật và chư Bồ Tát
trong ba nghìn thế giới. Do vậy, đạo Phật là một
tôn giáo “hơn cả tôn giáo” với kho năng lượng
lành phong phú không thể nghĩ, bàn theo tính
cách đời thường. Sự giao hưởng tâm linh giữa
người thường và đối thể ẩn chứa năng lượng lành
(thường hiểu như thánh thần) hoàn toàn không
vắng bóng trong đạo Phật.
Trong sinh hoạt
văn hóa toàn cầu, cho đến đầu thế kỷ 20, các hệ
thống thần học phương Tây vẫn có khuynh hướng
chủ động và chủ quan làm “phán quan” trong việc
định nghĩa những khái niệm nhân văn theo những
tiêu chuẩn và hệ thống giá trị truyền thống của
chính họ. Đặc biệt là khái niệm về Thượng Đế và
tôn giáo. Những ý niệm nào không vừa vặn với
định nghĩa theo thước, tấc, phân, ly của họ đều
bị coi là… dị giáo, là ngoại đạo cần phải bị
loại trừ.
Nếu khái niệm về
Thượng Đế mang ý nghĩa như là sự trả lời cho một
câu hỏi đã có từ khi loài người sinh ra trên
trái đất nầy, rằng: “Ai/nguyên nhân/năng lực/vị
thế... Đầu Tiên sinh ra vũ trụ và vạn vật, con
người; và, con người sẽ biến mất như cát bụi hay
còn tồn tại dưới một dạng thức nào khác sau khi
chết, thân xác tan rã, thời gian trôi qua...?”
thì Phật giáo cũng có một “ Thượng Đế” riêng.
Đó là vạn vật đều không có một tự tánh riêng
thường hằng bất biến (Không Tánh). Nhưng khi
những vật không có tự tánh đó gặp nhau và hợp
lại với nhau trong những điều kiện nào đó thì sẽ
tạo ra một hợp thể mới (Duyên Khởi). Tất cả đều
quay theo vòng sinh diệt của quá trình thành,
trụ, hoại, không từ vô thủy đến vô chung. Con
người cũng như mọi loài có sinh có chết đều tồn
tại dưới một dạng năng lượng “chủng tử” và biến
hiện không ngừng trong dòng sinh diệt đó. Như
thế, Thượng Đế của đạo Phật (nếu cần phải gọi
theo ngôn ngữ quy ước của lý tính phương Tây)
chính là Duyên Khởi. Vũ trụ, vạn vật được tạo
nên hay hủy diệt là do duyên khởi và duyên hợp
hay duyên tan qua vô số hình tướng hợp thể giả
tạm, tuyệt đối không có tự tánh thường hằng bất
biến. Mahatma Gandhi, người tin vào Thượng Đế Ấn
Độ giáo từng nhận định rằng: “Đạo Phật không phủ
nhận Thượng Đế nhưng định nghĩa Thượng Đế theo
cách riêng của mình.” Nhà vật lý lừng lẫy nhất
thời hiện đại, giáo sư Stephen Hawking, qua tác
phẩm hàn lâm khoa học Sự Tạo Tác Vĩ Đại (The
Grand Design) vừa xuất bản đã làm chấn động “tư
tưởng sáng thế” toàn cầu khi xác định rằng,
không có một đấng uyên nguyên nào đứng ra sáng
tạo vũ trụ cả. Toàn thể vũ trụ được sáng tạo ra
từ những thành tố không mang tính chất tiền định.
Vô hình trung, Hawking và đạo Phật gặp nhau vừa
vặn trong cuộc hành trình của tư tưởng khoa học
nhân loại dài hơn 25 thế kỷ!
Phật Giáo Việt
Nam Đang Lụi Tàn Hay Khởi Sắc?
Phần 3: Ngày
tàn của đạo Phật?
Theo NHL thì giới
trí thức Phật giáo đang bỏ dần đạo Phật vì thất
vọng trước một hệ thống giáo lý không còn hấp
dẫn và đáp ứng được nhu cầu tâm linh thời đại
(?). Chẳng rõ khi nêu lên nhận định mang tính
quyết đoán nầy, NHL có căn cứ trên những dữ kiện
khả tín nào không hay cũng chỉ là một lối phỏng
định theo cảm tính thuần triết học của hình ảnh
Heraclite ở truồng cố tắm trên dòng sông...
“đương niệm hiện tiền”. Nhưng nếu chỉ xét về
khía cạnh “chính danh” mà thôi thì đã thấy có
điều không ổn về nhóm chữ “trí thức Phật giáo”.
Theo NHL thì “trí thức Phật giáo” là ai? Là
những người có bằng cấp đại học, có học hàm, học
vị cao theo đạo Phật nhưng chẳng hiểu gì về đạo
Phật? Hay là những người có trình độ học vấn cao,
đồng thời cũng hiểu giáo lý nhà Phật? Hoặc là
những cư sĩ, thiện tri thức đã biết và thực hành
pháp môn tu học đạo Phật? Hay là những người
nghiên cứu đạo Phật sâu rộng nhưng chỉ cỡi ngựa
xem hoa chứ chưa bao giờ hành hoạt tu trì? Thế
nhưng dẫu họ là ai thì điểm then chốt ở đây vẫn
là nhu cầu tâm linh. Và nhu cầu tâm linh thực sự
của họ trong thời đại ngày nay mang ý hướng và
nội dung như thế nào?
Hãy khoan đi vào
những ngõ ngách tâm lý, luận lý và triết lý
nhiêu khê trong rừng thiền bạt ngàn của Phật
giáo và xin tạm hình dung ra một trí thức Phật
giáo theo nghĩa bình thường. Đó là một người có
tầm hiểu biết tương đối rộng, có cách nhìn và
nhận xét vấn đề phải chăng và có đủ khả năng
nhận thức được những khái niệm cơ bản giáo lý
nhà Phật. Người ấy đến với đạo Phật như tìm về
một suối nguồn tâm linh và tư tưởng bằng tinh
thần tìm cầu tu học chứ không phải dựa vào đạo
Phật để mưu cầu lợi ích kinh tế hay tìm sự hỗ
trợ chính trị cho bản thân, cho nhóm phái ồn ào
lửa rơm cơm cháy nhất thời. Người đó sẽ tìm gì
từ tôn giáo? Sự che chở, hứa hẹn, phép lạ, cứu
rỗi... chăng? Nếu chỉ có thế thì chỉ là tín đồ,
con chiên ngoan đạo chứ đâu cần phải vận dụng
vai trò người trí thức. Người đi tìm kho kiến
thức phong phú, tìm cách lý giải nguyên lý cuộc
đời và nguyên tắc sống chăng? Nếu thế thì làm
học giả chứ đâu cần tới cái gọi là “trí thức
Phật giáo”!
Và nếu nhìn tổng
quan lý thuyết Phật giáo như một trò chơi chữ
viễn mơ thì đó một trí thức Phật giáo chưa thành!
Hiện tượng “trí
thức Phật giáo từ bỏ đạo Phật...” như nhận định
của NHL không thực sự xảy ra trên thực tế trong
cũng như ngoài nước; kể cả Phật giáo Việt Nam và
Phật giáo thế giới. Nếu có chăng một mớ hiện
tượng “thoái trào” của giới trí thức thuộc nhiều
tôn giáo nhưng Phật giáo chiếm đa số là hiện
tượng “phiêu lưu thám hiểm” tôn giáo đã xảy ra
vào những năm 1980 tại hải ngoại. Đấy là hiện
tượng một số người Việt, tương đối còn trẻ, có
học vị cao về “Tây học” nhưng thiếu sự hòa điệu
và tiếp cận với ngọn nguồn và gốc rễ văn hóa
Việt Nam vì được du học hay di cư ra nước ngoài
ở lứa tuổi còn non. Một vài nhóm trí thức trẻ
nầy dấy lên phong trào theo học các pháp môn
“chế biến Thượng Đế” của một số hiện tượng nhất
thời như pháp môn Quán âm, Vô vi, Nhân điện,
Linh quang, Thiền cách tân gồm nhiều tên gọi và
nhánh phái. Sự xôn xao thời 1980 nhạt dần trong
thập niên 1990 và gần như vắng bóng trong thập
niên 2000.
Tuy nhiên, vẫn có
hiện tượng nhiều trí thức Phật giáo ngày nay
chọn sinh hoạt Phật sự ở nhà thay vì đến chùa
như thường lệ. Thái độ không đến chùa sinh hoạt
thường xuyên và trực tiếp với “Tăng bảo” hoàn
toàn không đồng nghĩa với hành động bỏ đạo hay
cải đạo. Điều nầy xuất phát từ 5 lý do chính:
- Một là, do
phương tiện truyền thông hiện đại quá phong phú.
Người ở nhà cũng có thể tham gia đàm luận, tu
tập, nghe pháp, thăm viếng chùa viện qua hệ
thống vi tính.
- Hai là, do hệ
thống tổ chức của giáo quyền tan rã và bất lực.
Mỗi chùa có một vị trú trì và một đạo tràng
riêng, độc lập về mọi mặt tổ chức, kinh tế, tài
chánh, lễ nghi, tu học mà nếu cần, có thể tự đặt
tên, xưng danh và sinh hoạt như một “giáo hội”
riêng biệt hoàn toàn hợp pháp trong bối cảnh xã
hội phương Tây.
- Ba là, hiện
trạng Tăng già chống báng nhau làm Phật tử mất
niềm tin và nản lòng trước những lời nói pháp
hay ho nhưng không được hành hoạt gắn liền với
thực tế.
- Bốn là, truyền
thống lễ nghi và lễ nhạc Phật giáo Việt Nam đang
bị “phát huy” một cách tùy tiện, tự phát và mang
nặng tính trình diễn hời hợt do hàng Tăng ni cao
niên và tuổi trẻ thiếu sự hợp tác cần thiết
trong vai trò chủ động lễ nghi tôn giáo. Trong
lúc nhu cầu thiết yếu trong sinh hoạt và tu học
đang cần đến là: Dụng phương tiện nghi thức, lễ
nhạc hài hòa, thống nhất và đồng bộ Hoằng dương
Phật pháp.
- Năm là, sự bế
tắc về một khả năng hóa giải những dị biệt trong
cộng đồng Tăng lữ vì mặc cảm (tự tôn là chính)
và định kiến (khuynh hướng chính trị; viễn kiến
bảo thủ và cấp tiến). Thời đại mới nhưng bản
chất cũ: Không chấp nhận và thỏa hiệp với sự
khác biệt để hóa giải, khăng khăng bảo thủ cái
riêng của mình là đúng.
Một trí thức Phật
giáo, cư sĩ Minh Tâm viết: “Chưa bao giờ giới
trí thức Phật tử Việt Nam thuộc thế hệ cao niên
lại đón nhận suối nguồn tư tưởng và các pháp môn
tu học, di dưỡng tinh thần của Phật giáo nhiệt
tình và đông đảo như trong thời đại ngày nay.
Triết lý nhà Phật làm thỏa mãn những nhu cầu tri
thức của giới học thuật thời đại vì bản chất tự
do, phóng khoáng trong cả Kinh và Luận. Từ mức
độ thực tiễn đời thường đến nhu cầu “vô thượng
thậm thâm” của tri thức, kinh điển nhà Phật đều
đáp ứng linh hoạt và sinh động.
Tuy nhiên, không
ít những trí thức Phật giáo Việt Nam hiện nay
càng có cái Tâm quy ngưỡng đạo Phật mạnh mẽ
chừng nào, lại càng tìm cách quay lưng với việc
‘Phật sự’ ở các chùa chiền người Việt chừng ấy.
Thậm
chí họ xa lánh chư Tăng ni và bạn đạo bởi họ
không còn chịu đựng nỗi cảnh chùa chiền bị biến
thành những trung tâm quyên tiền, gây quỹ còn
thô phàm hơn là cảnh thương mãi ngoài đời. Nhiều
trí thức Phật giáo khác thất vọng và giảm lòng
quy phục các ‘trưởng tử Như Lai’ lại không nương
theo đường hướng của đấng cha lành. Giới Tăng lữ
Phật giáo Việt Nam làm công cụ cho phàm nhân hay
tệ hơn nữa là biến tướng thanh phàm nhân chia
phe, kết phái nói xấu nhau, bêu riếu nhau trên
đài, trên báo, biến cảnh Thiền môn thanh tịnh
thành cảnh chợ trời hỗn loạn. Tuy nhiên,
trong cảnh chợ chiều náo loạn đó, may thay, vẫn
còn nhiều đài sen vô nhiễm. Xin quy kính đảnh lễ
quý chùa chiền tu viện và chư Tôn đức Tăng ni
vẫn còn giữ được thiền môn thanh tịnh, giới luật
nghiêm minh, tâm bồ đề kiên cố...”[8]
Một trí thức Ki
Tô giáo ở nước ngoài cũng nhận định: “Tới mấy
thế kỷ vừa qua và hiện nay, Thiền đi tiếp con
đường linh hướng của nó trên khắp thế gian, khi
bắt gặp những tâm hồn đồng điệu ở chốn trời Tây.
Thiền chinh phục các vùng đất xa xôi và thâm
nhập sâu rộng hơn vào sinh hoạt văn hóa, tôn
giáo, nghệ thuật của người phương Tây. Thiền
không còn chỉ là cốt lõi của văn hóa Á đông mà
đang trở thành duyên hội ngộ, chốn đồng cảm trên
khắp năm châu thế giới. Cái thanh tĩnh, vô ngã
và như nhất trong Thiền nay lan tỏa và góp phần
quy nguyên loài người trở về đại đồng huynh đệ.”
[9]
Giới trí thức
Phật giáo vẫn còn đó với tín tâm vào Đạo Pháp
không hề thối chuyển; nếu không muốn nói là càng
phát huy mạnh mẽ hơn do sự chín chắn của tuổi
tác và mức độ trải nghiệm với thực tế. Không
chấp nhận những hình thái thế quyền và giáo
quyền phi Phật giáo hoàn toàn không đồng nghĩa
với sự phủ nhận Phật giáo. Chối bỏ những dòng
sông vẩn đục không có nghĩa là từ bỏ đại dương
trong xanh.
Theo nhận định
của Allen Carr trong bài điểm sách nói trên thì
các nhà truyền giáo Tin Lành đang gặp phải những
bức tường bảo vệ kiên cố của đạo Hồi ở Trung
Đông và châu Phi, “vòng đai thánh kinh” đã có
sẵn ở châu Mỹ, chiếc nôi đạo Chúa ở châu Âu nên
hướng tiến còn lại của những binh đoàn truyền
giáo lắm của nhiều người là châu Á. Nơi mà đa số
người dân theo đạo Phật với đời sống tâm linh từ
bi, hiếu hòa, bất bạo động. Dụng công tiếp cận
với bất cứ nhóm dân tộc theo Phật giáo nào,
Hattaway cũng tìm thấy khả năng đầy triển vọng
cho việc vận động quần chúng tập thể bỏ đạo Phật
để cải sang đạo Chúa. Công cuộc vận động truyền
đạo để cải đạo được áp dụng và ứng xử liên tục,
quyết đoán đã khai diễn. Các phương tiện khả thi
đều được áp dụng triệt để từ việc liên kết với
các nhóm kinh tế, từ thiện đến khả năng tranh
thủ sự hỗ trợ từ phía chính quyền các cấp...
Đạo Phật sẽ có
một ngày tàn hay không?
Tất nhiên là có.
Đó là một chân lý khách quan đã được khẳng định
trong tiến trình tất yếu của “Thành, Trụ, Hoại,
Không”. Thế lực tâm linh hay phàm tục nào đi
ngược lại tiến trình khách quan nầy là tự đánh
lừa, bị đánh lừa hay chủ tâm đánh lừa một đối
tượng khác vì bị vô minh che lấp hay vì thiếu
lương thiện. Diệt... trong khái niệm về tiến
trình duyên khởi của đạo Phật là một sự biến
tướng sinh khởi trùng trùng bất tận chứ chẳng có
gì còn mà cũng chẳng có gì là mất tương tự như
nguyên lý Bảo Toàn Năng Lượng trong khoa học
hiện đại. Như nước, hơi, mây, mù, mưa, sông,
suối, biển cũng chỉ là biến tướng của duyên hợp,
duyên tan, duyên tàn, duyên tận, duyên khởi,
duyên sinh… đời đời như thế. Ngày nào tiến trình
sinh diệt này chấm dứt bằng sự giác ngộ viên mãn,
ngày đó đạo Phật không còn cần thiết nữa và tự...
“tan hàng” chứ chẳng cần có sự cải thể hay giải
thể nào cả. Đó là ngày vô minh đã được khai sáng,
ngày sự đau khổ không còn hiện hữu và ngày mà
tất cả chúng sanh đều đã tới được bến bờ giác
ngộ… Paramita!
Tốc độ
của dòng chảy thành, trụ, hoại, diệt nầy nhanh
chậm như thế nào và khi nào mới thật sự diễn ra?
Chỉ một
chớp mắt là đã có vô vàn sự sinh diệt diễn ra ở
mức độ một tế bào, một vật thể, một sinh thể,
một thế giới, một vũ trụ hay cả tam thiên đại
thiên thế giới. Dòng luân lưu của những sát na
sinh diệt tiếp diễn từ vô thủy đến vô chung.
Mai kia – một nháy mắt sau, tuần tới hay vô số
tỷ tỷ năm sau – ví thử trái đất nầy bị một biến
động vũ trụ làm tan tành ra tro bụi, cho dù cõi
Ta Bà nầy có tan thành mây khói thì tam thiên
đại thiên thế giới vẫn trường tồn, thường tại
luân lưu. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một tia
sáng trong biển hào quang của hằng hà sa số chư
Phật. Khái niệm “tàn” và “tận” của pháp thế gian
là cái nhìn đom đóm dưới ánh mặt trời.
Cho nên,
với đạo Phật thì hiện tượng mất, còn chỉ là giả
tạm. Cái nghiệp – thiện ác đáo đầu chung hữu báo
– mới đeo đẳng người ta như bóng với hình. Đeo
mãi cho đến ngày… đoạn nghiệp. Nghiệp, không
phải là nụ hôn hay cái tát; không phải là ân đền
oán trả từ đâu tới vu vạ, nằm đó mà chờ. Nghiệp
là hợp lực, cộng mạng ở ngay chính trong ta từ
thời vô thủy của thân mạng nầy nên không ai có
thể trốn nghiệp hay thoát nghiệp cả.
Giải
phóng trong đạo Phật không phải là biến tướng,
đổi màu mà là giải nghiệp. Mèo đen, mèo trắng,
mèo vàng… thì cũng chỉ là giống mèo biến tướng.
Nô lệ da đen, nô lệ da trắng, nô lệ da vàng… thì
cũng chỉ là kiếp nô lệ thay màu. Sự giải phóng
của đạo Phật là giải thoát, thoát kiếp tử sinh,
chấm dứt dòng luân hồi đòi đoạn chứ không phải
biến cảnh tôi đòi trần gian ra cảnh tôi đòi…
viễn mộng!
Tuy vạn
pháp sinh diệt không ngừng, nhưng chuẩn đích vẫn
là thấy được và tìm cách tới được bến bờ giác
ngộ. Pháp thế gian nhìn thấy cảnh núi là núi
sông là sông qua đôi mắt trần phàm tục. Pháp
quán thế gian nhìn thấy bản chất của núi và sông
qua tu học và quán niệm. Pháp xuất thế gian nắm
bắt được thật tánh của núi và sông qua chứng đạo.
Khi đã chứng đạo giác ngộ giải thoát rồi thì đạo
Phật không còn cần thiết nữa. Tam Tạng Kinh Điển
cũng trở thành chiếc bè qua sông cần vất bỏ đi.
Với trí tuệ bát nhã thì “trong Không là sự rỗng
lặng tuyệt đối: Không sinh, không diệt, không
sạch, không dơ, không tăng, không giảm”. Như
thế, nói rằng đạo Phật còn, đạo Phật mất hay đạo
Phật lụi tàn cũng chỉ là huyễn hóa như nhau! Bản
thể của đạo Phật không bị dính mắc vào những
phương tiện của một thời, một cõi nào đó; dẫu
cho cõi đó là Phật, Pháp, Tăng... mà tất cả là
Tánh Rỗng Lặng.
Sự
lăn xả
vào nỗ lực tấn công Phật giáo để tranh thủ kiếm
người cải đạo giữa các thế lực tôn giáo đông
người lắm của hiện nay trên các vùng đất nóng
bỏng của thế giới là một cuộc mua bán và đổi
chác linh hồn đầy lẩn quẩn của nhiều thế kỷ
trước. Viễn ảnh “cao trào” hay “thoái trào” có
thể thấy rõ qua lăng kính “nhân quả đồng
thời”. Trong nhân đã có quả. Bạo phát thì bạo
tàn. Trong từ bi đã có mầm có giải thoát. Trong
áp đặt, mua chuộc đã có mầm nô lệ, phản tỉnh.
Muôn triệu sinh linh bị níu kéo dính chùm trong
khu vườn tâm linh tập thể sao bằng những cánh
chim hạnh phúc đang tung bay trong bầu trời tự
do, an lạc!
Phật Giáo Việt
Nam Đang Lụi Tàn Hay Khởi Sắc?
Phần 4: Tánh
Phật Giữa Đời Thường?
Lịch sử văn minh
của loài người, từ Thượng cổ đến thời kỳ vệ tinh,
nguyên tử, vi tính hôm nay là một cuộc chiến đấu
vươn lên không ngừng. Hết thảy mọi biến cố lớn
nhỏ đều xuất hiện quanh hai thế giới song hành:
Thế giới vật lý giữa đời thường và thế giới tâm
linh tôn giáo. Tôn giáo là một tập đại thành
những tinh hoa và tính hướng thượng của đời sống
tinh thần. Tự bản chất, tôn giáo nào cũng nhằm
hướng con người đến Chân và Thiện. Nhưng động
lực xoay chuyển bước đi của tôn giáo lại là con
người. Con người lại là con vật chiến tranh. Sự
tương tranh, giành giật địa bàn và quần chúng
cho mục đích tôn giáo là cả một quá trình đầy
máu lệ vì người ta đã nhân danh Chân mà làm điều
dối gạt và nhân danh Thiện mà làm điều ác xẩy ra
khắp nơi trên mặt địa cầu nầy. Vì thế, chiến
tranh tôn giáo có khi còn gây ra nhiều tang
thương và dai dẳng hơn cả chiến tranh dành quyền
lực thống trị đời thường. Từ những cuộc chiến
“Tô-Tem” giữa các bộ lạc cổ sơ đến những cuộc
Thập Tự Chinh thời Trung Cổ và muôn vàn hình
thức Thánh Chiến tử đạo, triệt đạo, truyền đạo
và cải đạo ngày nay có vẻ như mỗi ngày một leo
thang gay gắt hơn xưa. Với cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật hiện đại, càng ngày sự giao lưu
càng dễ thì địa cầu càng nhỏ lại. Đất sống càng
nhỏ thì sự cạnh tranh “thị trường bành trướng
tâm linh” càng trở nên quyết liệt và bất chấp
hơn...
Giữa những cơn
sóng gió trầm luân ấy, đạo Phật từ khi xuất hiện
cho đến thời điểm nầy, vẫn còn đứng ngoài mọi
hình thức tranh chấp tôn giáo và thế cuộc. Trong
lịch sử lâu dài của Phật giáo Đông Tây, điểm son
sáng chói nhất của đạo Phật là sự nhất quán về
tinh thần từ bi, hỷ xả, phá chấp, vô ngại. Cũng
đã có những thời kỳ mà đạo Phật bị các thế lực
thế quyền và thần quyền thù nghịch bức hại, tàn
sát, tiêu diệt: Chùa viện, tượng đài bị phá tán;
kinh điển bị thu hồi và thiêu hủy; tăng sĩ, tín
đồ bị giết chóc. Thế nhưng chưa bao giờ lịch sử
để lại một trường hợp phản ứng bạo động có dính
dấp tới hận thù, xương máu nào của Phật giáo
dưới hình thức chiến tranh tôn giáo. Phải chăng
nhờ bản chất hòa bình và an lạc đó mà Phật giáo
còn tồn tại đến ngày nay và tiếp tục lan rộng
đến những vùng đất Âu Mỹ; trong lúc những tôn
giáo khác cùng quê hương phương Đông như Ấn Độ
giáo, Thần đạo Nhật, Khổng giáo, Lão giáo,
Mayan... vẫn không tiến ra khỏi vùng đất phát
sinh.
Tôn giáo là một
nguồn suối tâm linh. Tìm đến với đạo Phật là tìm
về một suối nguồn an lạc nội tại: Không so sánh
to nhỏ, không tính toán hơn thua, không phân
biệt ta người, yên tâm trong một dòng chảy bình
an và tự tại. Đức Phật đã cho rằng, tất cả các
pháp thế gian đều là Phật pháp. “Phật” ở đây
chẳng phải là pháp vị của một đức Phật nào cá
biệt trong hằng hà sa số chư Phật mà đó là “tánh
phật” – không viết hoa – là tánh thật tự tại có
sẵn trong mọi loài và mọi người. Thế gian xưa
nay lớn nhỏ mới có chừng một trăm tôn giáo. Mỗi
tôn giáo nhìn về vũ trụ, thế giới và con người
theo một phương cách khác nhau. Bằng tuệ giác
của tánh thật, đạo Phật không những nhận ra có
tám vạn bốn ngàn mà là vô số pháp môn, vô số
cách nhìn và cách ứng xử khác nhau. Vào cửa Phật
mà còn bị chận lại bởi phương tiện môn là chưa
tìm ra khóa để tự mở ngõ mà vào.
Ngày nào mà một
tôn giáo còn biến tướng thành một “cao trào” hay
một “thoái trào” như những biến cố chính trị và
thương mãi dấy lên hay xẹp xuống theo thời cơ
thì ngày đó tôn giáo chỉ còn là cái vỏ rùa khô
cho con người lợi dụng trang trí. Nếu nói theo
những nhóm từ “thoái trào hay cao trào” kiểu
Nguyễn Hữu Liêm thì đấy chỉ là hiện tượng bề mặt
nổi sinh hoạt của một cuộc xuống đường hành
hương ồ ạt – tốc tụ, tốc tán; bạo phát, bạo tàn
– của những người theo một tôn giáo nào đó
trong một thời điểm nào đó chứ chưa phải hình
ảnh hay hiện trạng thực sự của tôn giáo đó.
Trên quan điểm
tôn giáo tiến bộ ngày nay, nếu có chăng sự “cạnh
tranh” giữa các tôn giáo là trọng tâm về phẩm
chất và phẩm cách chứ không phải về số lượng và
lực lượng. Một tôn giáo bạn như Tin Lành mà NHL
đề cập trong bài viết chẳng hạn, nếu thực sự tạo
nên đà phát triển lớn mạnh mà không làm phương
hại tới ai và bằng phương tiện nhân văn, ý hướng
nhân bản thì ít ra, đó cũng là một phương tiện
tích cực vì thông thường xưa nay, khi nhà chùa,
nhà thờ, nhà trường mọc lên thì nhà tù, nhà giam,
nhà chứa giảm xuống.
Sau ngày mừng
Xuân Tân Mão 2011, bài viết Lên Kế hoạch Ngày
Tàn Phật giáo của Allen Carr được phổ biến rộng
rãi trong môi trường truyền thông báo chí Phật
giáo trong và ngoài nuớc. Phản ứng của quần
chúng Phật tử khá sôi nổi. Nhưng nóng bỏng nhất
là luồng ý kiến “vận động quốc tế chống cải đạo”.
Khi nói tới hiện
tượng truyền đạo và cải đạo quyết đoán và xông
xáo nhất, người ta nghĩ ngay đến chiếc nôi của
“văn hóa cải đạo” là Hoa Kỳ. Ai sống ở Mỹ lâu
năm mà không quen thuộc với hình ảnh của những
nhóm người hoạt động tôn giáo không bao giờ mỏi
mệt, đi gõ cửa từng nhà để nói chuyện truyền đạo
và cải đạo. Dẫu cho bạn có ưa hay không thì khó
có thể phủ nhận sự kiên nhẫn và thái độ “tốt
bụng” của họ. Thật ra, họ không phải là sản phẩm
của tôn giáo mà là phó sản của hình thái “văn
hóa football” và “văn minh quảng cáo”. Trong
môn chơi football, cầu thủ phải chế ngự đối thủ,
lăn xả lên hàng đầu, lấn từng tấc đất để thủ
thắng. Trong kỹ thuật quảng cáo phải rao bán hết
mình, hạ thủ các đối tượng cạnh tranh, kết quả
lợi nhuận sẽ biện minh cho phương tiện. Trên đất
Mỹ, người ta đã nhẵn mặt với những sinh hoạt xã
hội hằng ngày như thế. Nhưng nếu xuất cảng ra
nước ngoài có khi lại rất “ăn khách” và tạm thời
được việc vì sân chơi còn mới mẻ và giới tiêu
thụ chưa có kinh nghiệm.
Những Phật tử
cũng như những người thuộc các tôn giáo khác
trên đất Mỹ chẳng có ai bận tâm về chuyện
“thường ngày ở huyện” như truyền đạo, cải đạo.
Lý do là tại vì con người ở Mỹ dư thừa cơm áo và
có một trình độ dân trí tương đối cao. Sự độc
lập kinh tế và vững vàng về tri thức khiến việc
lựa chọn đời sống tôn giáo vừa chủ động, vừa
tích cực lành mạnh, chẳng có ai bị lôi kéo hay
đủ khả năng lôi kéo “theo đạo”. Trong một xã hội
văn minh, tôn giáo là phương tiện tâm linh của
con người chứ không ai áp đặt để biến con người
thành phương tiện của tôn giáo cả.
Phương
tiện tự nó chẳng có tội tình gì.
Con
dao, tự nó, không có công mà cũng chẳng có tội.
Tội hay công là do người dùng nó để giết người
hay cứu người mà thôi. Tôn giáo, phần lớn và nói
chung, là một phương tiện tốt. Nhưng tác dụng
xấu hay tốt là do người hành xử. Cũng tương
tự như thế, quá trình truyền đạo và cải đạo là
một phương tiện sinh hoạt bình thường của nhiều
tôn giáo. Nhưng nó chỉ trở thành một hình thái
chuyển hóa tâm linh thô bạo và độc đoán khi có
kẻ biến nó thành một loại vũ khí để chặt đứt
dòng sống thiện của người khác đang thành tâm
thực hành tôn giáo, hay không tôn giáo của người
ta. Bứng con người ra khỏi gốc lành để kéo họ
vào con đường khác bằng ảo tưởng cuồng tín, bằng
tiền của vật chất, bằng hứa hẹn hão huyền là một
tội ác tâm linh. Nó có thể hợp pháp, hợp với
chuyện cung cầu cơm áo đời thường, nhưng lại
không xứng hợp nhân luân và đạo lý làm người;
nhất là với người có đức tin tôn giáo.
Trước
những nguồn thông tin khá sôi nổi về chuyện
truyền đạo, cải đạo ở quê nhà; đặc biệt là những
vùng quê, vùng cao, vùng sâu nghèo khổ... phản
ứng của giới Phật tử trong và ngoài nước tuy rất
khác nhau về mức độ, nhưng tựu trung cũng rơi
vào một trong hai tuyến nhân vật, xin tạm quy về
hai khuynh hướng cổ điển là bảo thủ và cấp tiến:
* Khuynh
hướng bảo thủ: Dè dặt và vô ngại. Những vị theo
khuynh hướng nầy cho rằng, đạo Phật lấy tinh
thần từ bi, hỷ xả làm đầu nên cứ hoan hỷ chấp
nhận bất cứ sự việc nào xảy ra và nên “thương
hại” những thế lực nào muốn ra tay đánh phá Phật
giáo. Lời nhận định của cư sĩ Thái Liên Hoa: Từ
bi mà thiếu trí tuệ thường đưa tới thái độ dễ
dãi thỏa hiệp bề mặt, nặng tính trình diễn hơn
là phát khởi từ chánh niệm. Chánh niệm không
phải là ngồi yên gõ mõ tụng khinh, mũ ni che tai
mà phải biết dụng công cải tà quy chánh; dụng
chánh đuổi tà.
* Khuynh
hướng cấp tiến: Xông xáo và vô quái ngại. Những
vị theo khuynh hướng này cho rằng, cải đạo là vi
phạm quyền tự do tâm linh của con người. Vì vậy
họ đề nghị những phương tiện “phản công” chống
cải đạo như phát hành tài liệu sách báo và vận
động dư luận quốc tế chống cải đạo. Lời nhận
định của cư sĩ Thái Liên Hoa: Cổ thư có dạy,
muốn giữ thành cho vững thì phải giữ vững lòng
tin của người trong thành trước đã. Khi Tăng
già hòa hợp, tứ chúng đồng tu, thiền môn thanh
tịnh thì đạo Phật hưng thịnh. Đạo Phật hưng
thịnh làm sáng niềm tin, khi đó chẳng cần chống
ai cả mà những vọng ngữ và vọng động phi Phật
giáo sẽ tự lụi tàn.
Thái quá
và bất cập đều dễ đưa tới cực đoan, vọng động và
vọng nghiệp. Con đường phong quang và tinh túy
nhất của đạo Phật là Trung Đạo. Có trí tuệ để
nhìn đúng mới biết làm đúng. Có từ bi để thương
yêu mới biết sống cho và sống với. Có hỷ xả để
vui mới giữ được tâm an lành và hạnh phúc. Hoa
sen vẫn nở được trong biển lửa. Hỷ xả được trong
mọi hoàn cảnh để giữ tâm bồ đề kiên cố, phát huy
năng lực hoằng pháp độ sanh bất thối chuyển
chính là hạnh Dũng tuyệt vời trong tam pháp hạnh
Bi, Trí, Dũng của người Phật tử.
Trước câu
hỏi: Phật giáo Việt Nam đang lụi tàn hay khởi
sắc?
Nếu nói chung
tình hình đạo Phật trên toàn thế giới thì câu
trả lời quá rõ ràng. Khoa học kỹ thuật càng tiến
bộ, môi trường truyền thông đại chúng càng phát
triển, tư tưởng của con người càng tự do và tâm
linh nhân loại càng vươn lên cao hơn sự trói
buộc của thần quyền và mê tín dị đoan thì đạo
Phật càng được cả hai thế giới phương Đông và
phương Tây càng đánh giá cao về cả 3 phương diện:
tự do, nhân bản và khoa học. Đặc biệt bản chất
từ bi, chánh kiến hòa bình và tinh thần an lạc
của Phật giáo là vốn quý của nhân loại toàn cầu
trong một thế giới dẫy đầy chiến tranh, bạo loạn
và xung đột như ngày nay.
Nếu nói
về mặt triết lý thì sự lụi tàn hay khởi sắc của
vạn pháp chỉ là sự biến tướng do nhu cầu hình
tướng bên ngoài. Đó chỉ là ảo ảnh. Mọi sự cố xảy
ra đều do duyên khởi. Tánh Phật là Tánh Không.
Không có tự tánh thì lấy gì để còn hay mất, khởi
sắc hay lụi tàn.
Tuy nhiên,
hình tướng vẫn phải trải qua sinh diệt. Dẫu cho
một nghìn năm cõi trần chỉ bằng một chớp mắt
trên cung trời Đạo Lợi thì tất cả đều phải trải
qua Đương niệm Hiện tiền (the very existing
flash). Trong chớp mắt “đương niệm hiện tiền”
này, có mặt Phật giáo Việt Nam.
Riêng về
Phật Giáo Việt Nam hải ngoại, theo nhà nghiên
cứu Phật giáo Thiên Trúc hiện đang làm việc cho
phân viện nghiên cứu tôn giáo thuộc cơ quan
PEW,
một “think tank” lớn nhất của Hoa Kỳ về tôn
giáo, thì hiện nay có khoảng 345 ngôi chùa,
trung tâm thiền học và viện nghiên cứu Phật giáo
của người Việt Nam tại nước ngoài. Có khoảng
1500 Tăng ni người Việt thuộc các bộ phái, pháp
môn khác nhau đang hành đạo ở hải ngoại.
Trong
số đó có hai phần ba là tu sĩ trẻ. Nhìn chung,
tu sĩ và tín đồ Phật giáo Việt Nam hiện đang có
từ 9 đến 13 nhóm phái sinh hoạt tự trị như những
hình thức “giáo hội” độc lập.
Một “giải pháp chưa có giải pháp” để làm khởi
điểm cho một khả năng hóa giải và chấn hưng đạo
Phật Việt Nam trong một tương lai gần trước mắt
được đa số Phật tử góp ý qua môi trường truyền
thông đại chúng gồm 2 trọng điểm:
- Trang
bị một cách nhìn mới, thích hợp với thời đại. Đó
là tinh thần hóa giải, hòa hợp “đa lưu chi” (nhiều
dòng, nhiều nhánh); tương tự như khuynh hướng
“đa nguyên” làm căn bản xây dựng cho một cấu
trúc xã hội tự do và dân chủ thực sự. Có thể nói
đây là một truyền thống ưu việt của đạo Phật.
Lịch sử Phật giáo trải qua nhiều thời kỳ kết tập
phân ra trên 20 bộ phái tuy phải nương vào “khế
cơ” để linh động vầ mặt cấu trúc cho hợp với nhu
cầu của hoàn cảnh và thời đại; nhưng vẫn giữ
vững “khế lý” để yếu nghĩa tinh hoa lời dạy của
đức Phật không hề suy chuyển.
- Chư
Tăng ni và quý Phật tử cần thể hiện “đức” hy
sinh. Hy sinh tiền bạc và kể cả thân mạng có khi
còn dễ hơn là hy sinh thói quen, định kiến và cố
chấp.
Hệ lụy của quyền
lực quân quyền và phụ quyền trong xã hội Việt
Nam truyền thống đã vô hình trung tạo ra lề thói
cố chấp hàng dọc. Đó là kiểu cách phân liệt tuổi
đời, tuổi đạo, hoàn cảnh xuất thân, sở học, địa
vị, danh tiếng, tiền bạc, xưng danh, tôn vị, tâm
mãi dính mắc với chùa to tượng lớn... đây chính
là động cơ phân hóa trong sinh hoạt các Tăng
đoàn và đạo tràng. Người ta chỉ chăm bẳm nhìn
vào hình tướng của nhau nên không nhìn thấy đạo.
Hệ lụy của xã hội
phương Tây quá thực dụng, chuộng vật chất và
sùng bái tự do cá nhân chủ nghĩa đã tạo ra những
phản ứng ly khai ra khỏi tập thể trong sinh hoạt
Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại. Hậu quả khó
tránh khỏi đã thực sự xảy ra. Điển hình và rất
phổ biến là hiện tượng cá nhân Tăng ni và Phật
tử đơn phương đứng ra lập chùa, lập hội, chiêu
mộ tín đồ, thành lập nhóm phái, ấn tống kinh
điển, lạm dụng pháp khí... đang trên đà tự phát
tùy tiện và nghiêm trọng.
Phật tử đang mong
đợi sự hy sinh cụ thể của chư Tôn đức và Tăng Ni
trong thời điểm tranh tối tranh sáng này. Ước ao
quý ngài chí thành đảnh lễ Phật, chân thành đảnh
lễ nhau để ngồi lại với nhau trong ngôi nhà pháp
bảo. Đối
với tầm nhìn của hàng Phật tử tại gia nói chung,
không có sự vọng động nào phi Phật pháp và xuống
cấp nghiệt ngã hơn là hình ảnh chư Tăng ni lên
đài, lên mạng, lên báo để buông lời thế tục;
thậm chí đả kích nhau, khích bác nhau, châm
chích nhau, đay nghiến nhau... làm mất hết pháp
uy cần phải có của một trưởng tử Như Lai. Kẻ
thế tục không thiếu vọng ngữ; duy chỉ thiếu ái
ngữ mà thôi! Kẻ thế tục lại càng không thiếu các
xảo thuật tâm lý, sách lược xã hội và thủ đoạn
chính trị; duy chỉ thiếu lòng từ bi và hỷ xả!
Không những hàng
cư sĩ Phật tử tại gia mà giới xuất gia cũng có
niềm thao thức tương tự. Trong bài pháp của một
Tăng sĩ thuộc thế hệ trẻ, thầy Thích Đạo Quảng
trú trì chùa Tam Bảo ở Baton Rouge, Louisiana,
Mỹ nhân ngày lễ Thượng nguyên đã chia sẻ: “Đạo
Phật Việt Nam tại hải ngoại đang bỏ phí nguồn
năng lực tiềm tàng và phong phú của mình. Nếu
tình trạng này kéo dài, Phật Giáo Việt Nam sẽ tự
biến ba thế mạnh thành ba thế yếu: (1) Mất ảnh
hưởng tích cực của văn hóa Phật Giáo Việt Nam
trên những quốc gia đang định cư; (2) Mất cơ hội
giáo dục và truyền thừa tinh hoa đạo Phật cho
thế hệ trẻ sinh ra và lớn lên ở nước ngoài; (3)
Mất đi một sức mạnh tổng hợp quan trọng để làm
chỗ dựa tâm linh cho hàng tu sĩ và đại chúng
trên đường tu học và hoằng dương Phật pháp. Nhu
cầu cấp thiết của đạo Phật Việt Nam hôm nay chưa
phải là những gì lý thuyết cao xa ngoài tầm tay
với. Đạo Phật là chánh niệm, là hơi thở của sự
sống hàng ngày. Hơi thở đó cần phải trong sáng,
hài hòa, thương yêu, từ ái. Chúng ta đang trải
qua một Pháp Nạn Tự Thân. Đó là sự phân hóa nội
bộ đang tạo ra cảnh “trùng sư tử ăn thịt sư tử”
và bắt nguồn cho cảnh dậu đổ bìm leo, ngoại đạo
đánh phá. Ngoại đạo chẳng phải ai khác mà chính
là ta; một cái Ta chấp ngã đang làm lu mờ tánh
Phật của chính mình. Người con Phật sẽ rất tán
thán công đức của bất cứ ai – kể cả quý linh mục,
mục sư và tín đồ các tôn giáo bạn... – góp tay
giúp hóa giải những xung đột nội bộ đã và đang
quá phí phạm hồng ân chư Tổ, phản lại tinh thần
lục hòa của chốn Thiền môn, làm mỏi nản lòng tin
và coi rẻ công phu xây dựng tu hành của đại
chúng.”[10]
Hàng
tu sĩ trẻ, chưa dày tuổi đạo, còn nói lên được
lời tâm huyết như thế. Lẽ nào hàng niên trưởng
xuất gia, hàng cư sĩ, thiện tri thức và Phật tử
tại gia đang nắm trong tay quyền lực tài
chánh, kinh tế lại nỡ lòng nhắm mắt ngồi yên hay
đang tâm thỏa hiệp với những chướng duyên vọng
động?
Napa - Sacramento, Xuân Tân Mão 2011
Trần Kiêm Đoàn
[2]
http://www.buddhismtoday.com/viet/diemsach/kehoachchongaytancuaPG.htm
[3]
http://www.bookfinder.com/dir/i/Peoples_Of_The_Buddhist_World-A_Christian_Prayer_Guide/1903689902/
[4]
http://www.philosophypages.com/ph/witt.htm
[5]
http://atheism.about.com/od/theology/a/negative.htm
[6]
http://en.wikipedia.org/wiki/The_Gay_Science
[8]
Đặng Minh Tâm: Đạo Phật đang đi về đâu?
Liên Hoa Nguyệt San, Cư sĩ, tháng 4 năm
2010
[9]
Nguyễn Ước: Cẩm Nang Sống Thiền. VHTT,
Việt Nam 2007.
[10]
Thích Đạo Quảng: Pháp Thoại tại chùa Tam
Bảo. Baton Rouge, Louisiana, Hoa Kỳ.
February, 20, 2011
|