NHỮNG KHÍA CẠNH VỀ PHẬT GIÁO

Tác giả: Lý Bỉnh Nam

Việt dịch: Thích Đức Hỷ

 

Tín ngưỡng tôn giáo vốn là điều mà con người chúng ta không sao có thể thiếu được. Nếu lưu tâm quán sát chúng ta sẽ thấy được điều đó. Thế giới rộng lớn này, nó khác nào biển cả. Chúng sinh trong thế giới ấy được ví như những loài thủy tộc đang trú ngụ. Và các tôn giáo giống như màng lưới kín giăng trùm, bao bọc khắp biển cả. Các loài thủy tộc trong đó, quanh quẩn chạy đông chạy tây, vẫn không sao thoát khỏi phạm vi của lưới. Chúng sinh trong thế giới này bị vướng vào những sầu muộn của hoàn cảnh; có nhiều vấn đề nảy sinh nhưng vẫn không cách nào giải quyết nổi. Đến một lúc nào đó, họ hầu như phải lao đầu, nương tựa vào một tôn giáo, trông chờ sự cứu rỗi, khai mở cho họ một con đường mới.

Vào lúc đó, tốt nhất ta nên bình tâm tĩnh lặng, trầm tư suy tưởng, khảo sát một cách tỉ mỉ; đem những điểm chính yếu của các tôn giáo, thảo luận, tra cứu một cách tường tận, so sánh với nhau, nhận thức một cách khách quan; ngõ hầu chọn ra một tôn giáo để quay về. Có như vậy, ta mới không mê mờ khi tin nhận, mới không từ mê vào mê, từ đau khổ lại chất chồng đau khổ. Và như thế, ta mới có thể phá tan mọi hoàn cảnh khổ đau, mới có thể tìm cho mình một con đường xán lạn đúng đắn để dấn bước.

Chúng ta hãy xem sự tôn nghiêm về quả vị của bậc giáo chủ Phật giáo, sự cao sâu rộng lớn của giáo nghĩa, sự triệt để của phương pháp cứu độ chúng sinh; không một tôn giáo nào có thể sánh hơn được. Đặc biệt nhất là trong hoàn cảnh văn hóa của nước ta hiện nay, đối với gia đình là điều mà chúng ta cần phải phân tích; như thế, mới có thể nhận thức được rõ ràng.

Thứ nhất, chúng ta nói về quả vị của Phật. Như mọi người đều biết, trong các loài có tánh linh, con người là bậc nhất (thật ra có loài Trời đứng trên loài người). Trong các kinh điển, đức Phật được xem như là bậc Thầy của tất cả loài người, quốc vương, loài Trời, Thiên Đế. Những nơi nào có Phật thuyết pháp, quốc vương các nước, chư Thiên Thiên Đế đều đến cuối đầu đảnh lễ, hộ pháp hoặc làm thị giả. Trong Kinh gọi Ngài là Thánh trong các bậc Thánh, là Trời trong hàng Trời; vậy thử hỏi còn có ai hơn Phật không?

Thứ hai là nói về giáo nghĩa. Số lượng kinh Phật lưu bố rộng rãi trong nước ta, tính ra cả thảy có hơn tám ngàn. Trong số đó có những bộ kinh như Đại Bát Nhã gồm sáu trăm quyển. Quả thật mênh mông như biển cả rộng lớn. Với sự phong phú như thế, e rằng không có gì hơn được. Nội dung của kinh, nói lớn thì lớn như hư không, nói nhỏ thì nhỏ như hạt bụi; nói dài xa thì như trần điểm kiếp, nói ngắn gần thì như một sát-na. Nói đến tình huấn của con người thì chi ly tường tận; nói đến bí mật của vũ trụ thì tách bạch rạch ròi. Nói đến phương diện chứng đạo thì chỉ ra Phật tánh không sanh không diệt; bàn đến triết học thì quả thật đã đạt đến mức chí cao. Nói đến luân lý thì lại là một luân lý tỉ mỉ chu đáo; nói đến khoa học thì cũng là khoa học tiên tiến; nói đến văn nghệ thì lại là văn chương hết sức hùng vĩ.

Thứ ba là nói đến phương diện độ sinh. Tâm lý chúng sinh đều muốn theo lành lánh dữ, một khi không còn cách nào giải quyết, cực chẳng đã họ mới làm những công việc cúng tế, cầu thần bái thiên. Những hành động này, kỳ thật không đạt được một chút ích lợi gì! Phật pháp không hướng dẫn chúng ta làm như thế, mà chứng minh cho chúng ta rõ về nhân quả, dạy chúng ta gieo nhân lành được quả tốt, dứt nhân ác diệt tội báo. Song nhân quả này lại chẳng đơn giản giống như nhân quả mà hàng thế tục nhận thức. Theo Phật pháp, đứng về mặt thời gian thì nhân có quá khứ, hiện tại và vị lại; quả phân ra có hiện báo, sanh báo và hậu báo. Đứng về mặt không gian thì nhân quả có rất nhiều cơ duyên không sao nói hết. Hợp hai mặt không gian và thời gian, nhân nhân quả quả thật là phạm trù rất phức tạp, lẫn lộn. Nếu như hiểu rõ luật nhân quả, chúng ta không những tự mình tiêu trừ tai họa mà còn có thể đạt được hạnh phúc.

Lại có một vấn đề khác nảy sinh, đó chính là từ nay về sau phải cầu một nơi quy túc. Bởi vì tất cả chúng sinh đều có thần thức, sự sống chết, đầu thai vào các nẻo không bao giờ dứt. Sau khi chết, con người sẽ bị nghiệp lực dẫn dắt. Bởi thế, phần nhiều họ phải chịu làm thân súc sinh, làm ngạ quỷ, phải đọa lạc vào địa ngục. Phật Pháp có khả năng hướng dẫn những căn cơ thấp kém để được làm thân người; hướng dẫn những căn cơ trung đẳng để được sinh thiên; còn đối với căn cơ trung đẳng hướng dẫn tu thành La Hán; đối với căn có tối thượng hướng dẫn tu hạnh Bồ Tát để chứng thành Phật quả. Nhưng Phật quả hoàn toàn không hạn chế cho bất kỳ chúng sinh nào. Chỉ có điều là chúng ta phải cố gắng chuyên cần thì căn khí mới theo đó hướng thượng tăng tiến. Và như thế, theo một quy luật bình đẳng, tất cả đều sẽ thành tựu.

Thứ tư là nói về những xử sự tốt đẹp trong gia đình. Một gia đình hạnh phúc là lục thân hòa thuận, Phật pháp có những yếu tố để hòa thuận sống chung, đó chính là thân, khẩu, ý phải hòa hợp không tranh chấp, giới luật cùng gìn giữ, lợi ích cùng chia đều. Nếu gia dình chúng ta đều một lòng quay về nương tựa Phật pháp, thì tự nhiên sẽ đoàn kết thành một mối,  hòa khí nảy sinh và như thế sẽ đạt được những niềm vui trọn vẹn.

Đến như hy vọng tương lại trọn vẹn, con cháu hiền lương; điều này chúng ta nên biết rằng, phong tục nước ta rất chú trọng hiếu đạo. Cha mẹ còn sống phải phụng dưỡng; cha mẹ mất đi phải thường xuyên tưởng niệm, cúng tế. Theo tinh thần Phật giáo đối với cha mẹ hiện tại, không những phụng dưỡng mà còn có rất nhiều hiếu tử thay cha mẹ tăng phước tăng thọ, sau khi chết được sanh về cõi Cực Lạc, thành bậc chân hiền. Những việc này ngoài Phật Pháp ra, không ai có giải pháp nào có thể làm cho triệt để như thế cả. Đồng thời hàng con cháu tin tưởng phụng Phật, cũng quyết  không thể xoay lưng với ông bà tổ tiên mà vứt bỏ đi những gì thiêng liêng cao cả nhất.

Thứ năm là nói về lợi ích của dân tộc quốc gia. Sự đoàn kết của một dân tộc, nếu chỉ đơn thuần dựa vào huyết thống để duy trì thì quả thật không đủ năng lực để làm việc đó. Điều cần thiết nhất, đó chính là cần có nột nền văn hóa, có cùng một tín ngưỡng; một khi chí đạo đồng hợp thì sự đoàn kết tự nhiên kiên cố. Tinh thần dân tộc nước ta lấy trung hiếu làm gốc. Vấn đề hiếu đạo đã được trình bày mở mục thứ tư. Ở đây chỉ đề cập chữ “trung” mà thôi. Trong các kinh luật Phật giáo có bốn điều kiện được xem là lực lượng hộ quốc của Phật giáo.

1. Không phạm vào quy chế nhà nước.

2. Không trốn lậu tô thuế nhà nước.

3. Không bài báng các lãnh tụ quốc gia chân chính.

4. Không được làm kẻ thù nước nhà.

Chỉ với bốn điều này mới đủ để biểu hiện tinh thần tuân thủ pháp luật, chân thành báo đền ơn nước, tấm lòng trung ái sâu sắc, dũng cảm bảo vệ nước nhà của Phật giáo.

Nước ta trải qua mấy nghìn năm nay, đời đời con cháu tiếp nối truyền thống tín ngưỡng Phật giáo, nó đã nghiễm nhiên trở thành sức mạnh đoàn kết không thể nào phá bỏ được. Nên biết rằng nhân dân tín ngưỡng Phật giáo thì quyết chắc sẽ không lìa bỏ đạo đức, xem thường quốc gia, hay không tôn trọng quốc kỳ.

Đây cũng chẳng qua là một phần. Điều quan trọng nhất là ở nước ta, vấn đề tín ngưỡng Phật giáo rất được thích nghi. Mong rằng những ai cầu học vấn, những ai tu đạo đức, những ai nghiên cứu triết học, khoa học, những ai mong cầu hiện tại được gần lành lánh dữ, những ai mong cầu đời sau giải thoát tịch tịnh, những ai mong cầu gia đình hòa mục, con hiếu cháu hiền, những ai quý trọng bảo vệ dân tộc quốc gia thì hãy mau chóng tín ngưỡng Phật giáo!

 

 

 
 
simple stats
lượt đọc kể từ Mùa Phật Đản 2552 - 2008