Tuyên Xưng Thông
Điệp Phật Đản
Của Đức Thế Tôn
MẶC GIANG
Mùa trăng tròn
tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011
năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 624 năm về
trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời
tại vườn Lâm Tỳ Ni, nước Ca Tỳ La Vệ tức Ấn Độ
bây giờ. Đó là Thái tử Tất Đạt Đa, con Vua Tịnh
Phạn và Hoàng hậu Ma Gia.
Người từ cõi trời
Đâu Suất, thị hiện giáng trần, ban ra Thông Điệp
Vô Thượng “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật Tri
Kiến”, khai sáng Đạo Từ Bi cứu khổ chúng sinh,
thông lộ thanh lương cho phàm nhân lên đường Tứ
Thánh.
Người đã ban
Thông Điệp nhân bản hòa bình cho nhân loại:
“Không có hận thù khi nước mắt cùng mặn. Không
có giai cấp khi dòng máu cùng đỏ. Không có tranh
chấp giết hại lẫn nhau khi mọi loài đều cần có
sự sống và tôn trọng sự sống”. Người đã vạch ra
tiêu chí chỉ hướng vươn lên: “Cội nguồn của khổ
đau là tham lam, sân hận, si mê. Căn nguyên của
oán cừu là ngã mạn, tranh đoạt, cửa quyền, hiếp
đáp. Gốc rễ của bất an là thủ thế, gườm nhau,
cưỡng chiếm, đáp trả, hơn thua”. Người đã hoằng
dương Đạo lý Giác ngộ, Giải thoát: “Chúng sanh
vốn trầm luân trong biển khổ, lặn hụp trong căn
nhà lửa Tam thế, xoay quần trong lục đạo luân
hồi, mê lầm với bóng tối thâm u, đắm say với
mộng huyễn bào ảnh, chưa biết và không có ánh
sáng để đi”.
Người đi trước,
dẫn đường và làm hướng đạo sư. Vàng bạc, châu
báu, giàu có, nhung lụa ư ! Ai đầy đủ hơn, sung
túc hơn được sống và thừa hưởng cung vàng điện
ngọc ? Ai quyền uy hơn, cửu trụ hơn sẽ kế nghiệp
Phụ Hoàng trị vì thiên hạ, đứng trên thiên hạ
với thần dân quốc thích ? Ai đẹp hơn trên trần
gian, một Công chúa Gia Du sắc nước hương trời
“Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn, Lửng lưng trời nhạn
ngẩn ngơ sa, Hương trời đắm nguyệt say hoa, Tây
Thi mất vía Hằng Nga giật mình”, với hàng trăm
hoa hậu tuyển chọn cho cung đình, với hàng ngàn
mỹ nữ phục vụ cúc cung, yến tiệc linh đình, sơn
hào hải vị, nhạc hội tháng năm.
Sinh thì Người đã
biết rồi, duy nhất chỉ riêng Người mới bước đi
bảy bước, mỗi bước nở ra một đóa hoa sen, bước
cuối cùng đứng lại, tay đưa lên trời, tay chỉ
xuống đất, dõng dạc nói: “Thiên thượng thiên hạ,
duy ngã độc tôn”. Chứ tất cả những ai chào đời
đều “Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe, Trần có vui
sao chẳng cười khì?”.
Cuộc ngoạn du ra
bốn cửa thành, nhìn thấy bốn cảnh Già, Bịnh,
Chết, một đạo sĩ, chính là tuyệt lộ. Tuyệt lộ
dẫn đến tử lộ - chấm dứt mọi đắm lụy của nhân
gian, chặt đứt mọi hệ lụy của trần gian mà con
người nói riêng, chúng sinh nói chung, lặn hụp
trầm luân mãi trong ba đường sáu nẻo từ vô thỉ
đến nay, và di họa đến vô chung.
Cửa Thành phía
Đông, kia là ai, sao lại nhăn nheo, lưng còm,
tóc bạc, run rẩy, mắt mờ, tai điếc, lú lẫn, lãng
quên ? Đó là một con người nhưng là người già!
Ai mà gọi là thọ mới sống được như thế, nếu bằng
không thì chết từ trong bụng mẹ, chết mới ra đời,
chết lúc còn nhỏ thanh thiếu niên “Ngoài kia lắm
mộ tuổi còn xanh”, chết thuở trung niên. Kiếp
phù sinh dễ có mấy ai “thất thập cổ lai hy”?
Sống sót lắm mới như thế kia, rồi từ lão niên
lão giả, lòm khòm, lụ khụ, ngơ ngơ ngáo ngáo,
khi quên khi nhớ, nói chẳng ra câu, mở miệng
không lời, “Lợi còn không có nói chi răng, Sống
trơ trơ biết chi ăn uống”, thế giới con người
chập chờn cửa tử đọng lại mới ghi vào sách gọi
là kỷ lục.
Cửa Thành phía
Tây, kia là ai, sao lại đau đớn, nhăn nhó, rên
la thảm thiết, có khi quằn quại cực hình, có khi
nằm yên thở dốc? Cái mặc thì áo quần xốc xếch,
mền chăn gối nệm bùi nhùi. Cái ăn không thèm ngó
dù mỹ vị cao sang, mới hôm nào ngày ba bữa dư
thừa vẫn kêu đói bụng. Uống ráng lắm từng hớp
cầm chừng. Nhà cửa cũng lắc đầu. Vàng bạc cũng
bảo thôi. Dục lạc ái ố không thèm ngó tới. Ruồi
bu, muỗi đậu đuổi không xong. Nước miếng, muỗi
dãi nhểu nhảo lều bều… Xin lỗi, ngay cái đại cái
tiện đổ bừa trên cái bô bên cạnh, nửa trong nửa
ngoài nhơ nhớp tanh hôi. Đầu tóc bù xù rối bời
chẳng cần chải chuốt, hai mắt lờ đờ không muốn
khép mở, chân tay dở lên dở xuống không nổi, nói
năng thì thào chẳng nên tiếng nên lời. Đó là cái
bịnh, mà phải bịnh chí tử, bịnh trầm kha, bịnh
thứ thiệt mới được. Đừng vội chê cười đánh giá
hay bỡn cợt đãi bôi, nên nhớ ở đời ai không bịnh,
khi bịnh rồi mới biết!
Cửa Thành phía
Nam, kia là ai, sao lại cứng đờ, mắt nhắm nghiền,
miệng ngậm câm, tay chân co quắp, không cục cựa,
không nhúc nhích? Một nhúm người lại khóc lóc,
kêu ca, đầu chít tang trắng, trên bàn có một di
ảnh, một bát nhang, khói hương lan tỏa, một mâm
cơm với một chén có vài miếng thức ăn gắp để sẵn,
cắm đôi đũa lên đó. Rồi dâng trà lần 1, lần 2,
lần 3, lại có tiếng ê a cầu nguyện, lễ tạ nhị
bái, tam bái, người này chia buồn, người nọ phân
ưu, nhìn nhau ngấn lệ? Đó là một con người đã
chết! Đã có sinh thì phải có tử, không ai ngoại
lệ, không ai thoát khỏi. Hết sống nổi thì phải
chết, và nên nhớ rằng, lằn ranh sống chết không
xa, không dài, không lâu, chỉ từng hơi thở! Tấm
thân kia trả về cát bụi, con người kia chuyến
hóa vô thường. Kiếp nhân sinh ngắn ngủi và trần
gian chỉ là quán trọ phù du.
Cửa Thành phía
Bắc, còn kia là ai, sao ăn mặc khác người, tư
thái thong dong, phong cách tự tại, trông có vẻ
toát ra vẻ thanh bạch, thánh thiện, an nhiên?
Hỏi ra, người ấy không nhà không cửa, không vợ
không con, không tiền không bạc, áo quần một bộ,
gia tài một túi vắt vai. Thật vỏn vẹn, đơn sơ,
thanh bần. Cái gì người ấy cũng không có mà cái
có của người ấy khó tìm trên thế gian. Được đáp,
ông ta là Đạo sĩ. Đạo sĩ là gì? Ai biết đạo,
hiểu đạo, sống với đạo, trả lời rất dễ. Ai không
biết đạo, mơ hồ về đạo, nghi hoặc cho đạo, giải
bày nhiều cách cũng khó thông. Thì ra, Đạo là
thế à!
Người đã quyết
chí xuất gia tầm đạo. Vào một đêm kia, Mồng 8
Tháng 2 Âm lịch, Người âm thầm từ tạ Phụ Hoàng,
từ biệt thê nhi, lìa bỏ hoàng cung, vượt hoàng
thành, khi đến dòng sông A Nô Ma, nói với hầu
cận Sa Nặc, đưa đến đây đủ rồi, hãy lui về, mang
mái tóc xuân xanh, nhung bào, kiếm báu về trao
lại Phụ Thân, thưa dùm ta rằng: “Ta chỉ trở về
khi tầm ra Đạo, ngược lại, bằng không, xem như
ta không có mặt trên thế gian này”. “Ngài ra đi
vì chúng sanh, Ra đi nguyền đem cho đời bao vui
sướng, Ra đi giải thoát luân hồi cho chúng sanh”.
Sáu năm trường
giữa núi rừng Hy Mã, trùng trùng tuyết phủ, tắm
gội gió sương, thời thọ thực mỗi ngày là vài hạt
mè và vài cọng lá rừng, tận dụng mọi thời gian
cho khổ hạnh, tham thiền, nhập định. Quần áo duy
nhất một mảnh y vàng. Ngày thời chim hót, đêm
tiếng thú vang. Ôi, hình ảnh của đạo sĩ Tất Đạt
- bộ da bọc xương cách trí, thân hình kiệt lực
tiều tụy, duy chỉ đôi mắt thâm sâu sáng quắc,
duy chỉ nghị lực siêu tuyệt vô song, biểu hiện
đức tính phi thường của một bậc thiên thượng
thiên hạ duy ngã Thế Tôn, trầm tư một cái gì cao
tột siêu xuất chưa liễu ngộ bản lai diện mục ?
Cơ chừng nó chập chờn đâu đó, đến rồi đi, đi rồi
đến, như con đom đóm lập lòe chưa đủ sức phá tan
bóng tối, như thanh âm nhỏ bé chưa đủ sức làm
tan vỡ hư vô, thượng thông thiên đường hạ triệt
địa phủ, như tiếng sóng rì rào chưa đánh động
trùng dương biển lộng!
Do đó, Người từ
bỏ lối đi khổ hạnh, giai đoạn ban đầu ắt có và
cần đủ khổ luyện, đúc rèn chuẩn mực, làm kim chỉ
nam định hướng hành trình, vẽ bản đồ thiên la
địa võng đạt ngộ, nhưng muốn đi tới đích, phải
có sức của thân, lực của tâm, thần của trí.
Không thể có sức lực trên tấm thân tiều tụy!
Không thể có sáng suốt khi tâm trí hệ lụy cơ thể
suy vi. Chao ôi, nhờ miếng sữa biếu tặng của cô
bé chăn cừu Tu Xà Đề, còn hơn thần linh y dược,
làm cho Người hồi phục khỏe khoắn lạ thường. Cảm
ơn nghe thành phần nghèo khổ bần cùng trong xã
hội, nghèo vật chất nhưng không nghèo tinh thần,
nghèo miếng cơm manh áo nhưng không nghèo tấm
lòng biết trân quý tình thương sự sống. Trong
cuộc đời, nhiều lúc nghèo làm được mà giàu không
làm được, nhiều khi giàu làm được mà nghèo không
làm được, và biết đâu người giàu cần phải học
cái chơn chất, trong sạch, thanh cao, thánh
thiện của người nghèo!
Sau khi thọ dụng
bát sữa xong, tìm đến một chỗ kia, dưới cội cây
Tất Bát La cổ thụ, lá tròn đầy xanh mượt, cành
vững chải vươn cao, dọc theo triền núi điệp
trùng, bên cạnh dòng sông Ni Liên thì thầm muôn
thuở. Người ngẫm nghĩ, có lẽ không đâu thích hợp
hơn nơi này, không đâu an định hơn vị thế nơi
đây. Bèn kết cỏ làm bồ đoàn, đặt sát gốc cây,
sau lưng là núi rừng, trước mặt là dòng sông.
Người tự phát đại thệ nguyện: “nếu không tầm ra
Đạo, không chứng đắc, không liễu ngộ, thì dù cho
thịt có nát, xương có tan, ta cũng quyết không
rời bỏ chỗ này”. Và Người buông tất cả, an tọa
kiết già, sâu vào thiền định.
Ngày một, Người
vẫn ngồi yên. Ngày hai không nhúc nhích. Ngày ba
không động đậy. Cho tới tuần 1, tuần 2, tuần 3,
vẫn cứ thế, bất động, không lay. Bên ngoài, lục
trần im bặt thanh âm, đối cảnh. Bên trong, lục
căn trong vắt an tịnh pha lê. Núi rừng im tiếng
gió. Dòng sông lặng nước reo. Chim không nghe
tiếng hót. Thú không nghe tiếng vang. Không gian
như ngưng đọng. Thời gian như ngừng trôi. Đến
một đêm cuối của tuần “thất thất”, canh một,
canh hai, canh ba, bổng lục thông tuần tự hiển
bày, chân như hiển lộ, mặt mũi thật của con
người, của nhân sinh, vũ trụ được khai ngộ tinh
tường. Cái gọi là trùng trùng vốn không diệt
không sinh. Cái gọi là bản lai vốn không còn
không mất. Cái gọi là vạn hữu càn khôn vốn không
đục không trong không tăng không giảm. Đó là
Phật tánh chơn thường vi diệu hằng nhiên. Không
phải chỉ riêng Người mà ai ai cũng có, nên Người
dõng dạc Thông Điệp “Nhất thiết chúng sanh giai
hữu Phật tánh”, “Ta là Phật đã thành, chúng sanh
là Phật sẽ thành”. Người đã chứng đắc vô thượng
chánh đẳng chánh giác, vô thượng chánh đẳng bồ
đề. Nơi người ngồi gọi là Bồ đề tọa, cây Bát La
gọi là cây Bồ Đề, Đạo của Người hoằng dương gọi
là Đạo Giác Ngộ.
Tuyệt trần thay,
tuyệt thế thay Đạo sĩ Tất Đạt Đa! Nếu là người
thường, đời thường, với cương vị Đông cung Thái
Tử, với vợ đẹp con ngoan, với cung vàng điện
ngọc, với mọi sắc màu dục lạc tột đỉnh của trần
gian, không phải Tất Đạt Đa thì kim cổ nào ai
làm được ? Nếu Người cũng như bao nhiêu vị Thái
tử khác trên thế gian, tận hưởng mọi nhung lụa
sang giàu, ngất ngưởng cương vị vua chúa lộng
lẫy quyền uy, rồi hoàng hậu hoàng phi với muôn
ngàn cung tần mỹ nữ, khi thời đại biến chuyển
hưng phế thịnh suy, dù có ra sao cũng phải tử
vong gọi là băng hà. Và Người cũng đã biệt tăm
biệt tích như hàng bao nhiêu Thái tử khác, hay
hàng vô số vua chúa khác, đã từ 2,600 năm trước.
Nhưng Người thì
không. Người mãi mãi là đấng Như Lai, Chánh biến
tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô
thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn Sư,
Phật, Thế Tôn. Người mãi mãi là Ta Bà Giáo Chủ
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Người mãi mãi là
Đức Từ Bi hiện hữu vô cùng cho chúng sinh biết
thương yêu, tôn trọng sự sống. Người mãi mãi là
ngọn đuốc trí tuệ sáng ngời cho chúng sanh biết
nẻo mà đi. Người mãi mãi là Hiện tại Trang
nghiêm vương Phật, nối kết Qúa khứ thiên ức Phật,
hoằng truyền Vị lai thiên ức Phật mà Đức Di Lặc
Từ Tôn sẽ đăng tòa Long Hoa Pháp Hội 16 triệu
năm sau.
Hình ảnh nào đáng
quý hơn, đáng tôn thờ hơn, đáng nêu gương hơn.
Một bậc Giáo Chủ cõi Ta Bà, một bậc Thầy của
thiên nhơn, một đấng Cha Lành chung bốn loại, mà
cái mặc vẫn chỉ có 3 Y, cái ăn vẫn ngày ngày
Khất thực, đầu trần chân đất như bao đệ tử khác,
ngủ nghỉ trên cái đơn gỗ mộc như thất chúng đệ
tử. Ôi dung dị vô biên! Ôi chơn chất vô thượng!
Hình ảnh đó sao không học mà lại “Trưởng giả học
làm sang”, được một chút gì đã cố quên chối bỏ
cái nghèo khó thuở cơ hàn, xa lánh tương lân
dòng họ!
Người là bậc Thầy
tuyệt thế bất nhị, ròng rã 45 năm trường hoằng
khai Tam Tạng kinh điển, ba rừng giáo lý thượng
thừa, mà 26 thế kỷ qua, chưa ai đã từng đọc hết,
chưa ai đã từng xem xong, cho đến thế kỷ “văn
minh” hai mươi mốt, với hệ vi tính công nghiệp
điện tử toàn cầu, vẫn mò mẫm chưa thông.
Thế giới văn minh
nhân loại hôm nay, nào Bác học tuyệt siêu, nào
Khoa học tuyệt đỉnh, nào Y học tinh hoa, cơ sở
Thiên văn, Viễn vọng, cơ quan khám phá không
gian, nhân - vật - trí - lực cùng đầu tư, cùng
đổ ra. Tuy nhiên, bịnh nan y vẫn bó tay chưa nói
đến bịnh đột biến phát sinh dịch nhiễm, phi
thuyền không gian tạm viếng Mặt Trăng, dò dẫm
Hỏa tinh, chưa tới Kim tinh, nói chi qua khỏi
Thái dương hệ. Rồi hiện tượng Đĩa bay, Người
ngoài không gian vẫn bí ẩn, mê hoặc. Thế giới
hữu hình, siêu hình như chuyện cổ tích, thần
thoại, dù bao nhiêu nhà nghiên cứu, học giả tìm
tòi, viết lách, và nghệ thuật phim ảnh diễn dịch
mơ hồ. Trong khi Người, 26 thế kỷ trước đã nói:
“nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng”, “hằng
hà sa số thế giới”. Mỗi thời Kinh giảng của
Người, không những chỉ Thập đại đệ tử, 1,250 vị
đệ tử lớn, 7 lớp đệ tử xuất gia tại gia nghe, mà
còn vô số Chư Thiên rải hoa cúng dường thính
pháp, cho đến vô số Ma vương, Đại ma vương nhiếp
phục phụng hành.
Ngày Phật Đản
2635 năm nay, dương lịch 2011, âm lịch Tân Mão
niên, Phật lịch 2555 năm, vốn đã từng năm, từng
năm kéo dài hơn 25 thế kỷ, với Tổ Tổ truyền thừa,
Tăng Già chấn tích trùng quang, khoảng ¼ dân số
thế giới quy ngưỡng tri hành, khắp mọi quốc gia
dân tộc vượt qua biên cương ranh giới.
Bản thân chúng
tôi đón nhận, chứ thật sự không mừng lắm dù Liên
Hiệp Quốc công nhận Ngày Khánh Đản của Đức Thế
Tôn trở thành Ngày Lễ Phật Đản Vesak Liên Hiệp
Quốc vào năm 1999. Cái nhìn của chúng tôi, quá
chậm. Cái đánh giá của chúng tôi, quá yếu. Chậm,
bởi Đạo Phật đã hiện hữu 2600 năm qua, sau vài
Tôn giáo cổ đại, nhưng trước nhiều Tôn giáo sau
này. Yếu, bởi công nhận Ngày Lễ Quốc Tế mà sao
không Nghỉ Lễ có tính quốc tế. Và cảm thấy kỳ kỳ,
những quốc gia Phật Giáo lâu đời, tín đồ Phật
Giáo đa số, không Nghỉ Lễ của Phật Giáo mà lại
Nghỉ Lễ tôn giáo khác với thời gian có mặt ít
hơn, tín đồ thiểu số. Hy vọng một ngày không xa,
Liên Hiệp Quốc phải thực hiện cho bằng được mỗi
tôn giáo lớn trên trái đất này phải có Ngày Lễ
Chính của họ và được Nghỉ Lễ trên toàn thế giới,
không cá biệt bất cứ tôn giáo nào, bởi mỗi tôn
giáo đều chỉ hướng cho đời, mỗi tôn giáo đều an
tĩnh tâm linh. Đây, có thể là bàn đạp san bằng
hệ lụy dị biệt, cách ngăn, tỵ hiềm để con người
được gần nhau hơn, nhân loại tin yêu nhau hơn.
Vô tình năm nay
chúng tôi
có nhận và đọc Thông Điệp Phật Đản của Ông Ban
Ki Moon, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc “…cốt lõi
của nó là vấn nạn về khổ đau của nhân loại mà
chính Đức Phật đã nhìn thấy và nhấn mạnh cách
đây hơn 2,500 năm” ; “Lời khai thị của Ngài…khơi
dậy những cuộc hội đàm đa phương” ; “Rất nhiều
tổ chức Phật Giáo đang thực hành giáo pháp của
Đức Phật. Tôi vô cùng cảm ơn sự ủng hộ của họ
đối với những hoạt động của Liên Hiệp Quốc nhằm
đạt được Những Mục Tiêu Phát Triển Thiên Niên
Kỷ” ; “…tôi hy vọng tất cả mọi người có thể dựa
vào những lời dạy có giá trị phổ quát trong
Đạo Phật để hành động trong tình đoàn kết với
những người đang đau khổ, để góp phần tạo nên
một thế giới nhiều tình thương yêu hơn, nhiều sự
tỉnh giác hơn cho tất cả chúng ta”.
Lại thêm Thông
Điệp gởi đến Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc của
Bà Irina Bokova, Giám đốc UNESCO. Rằng “Nhân Đại
lễ Vesak lần thứ 8, tôi muốn bày tỏ lời chúc
chân thành và nồng hậu nhất đến tất cả mọi Phật
tử trên khắp thế giới” ; “…thúc đẩy sự đối thoại
giữa các nền văn hóa, tôn giáo, và giữa mọi
người với nhau trở nên quan trọng hơn bao giờ
hết. Chúng ta phải làm việc mỗi ngày để xóa đi
sự hiểu lầm, để nâng cao kiến thức và thắt chặt
mối quan hệ cộng tác với nhau” ; “Tổ chức Văn
hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên Hiệp Quốc
(UNESCO) đã được thành lập nhằm góp phần tạo
dựng nền hòa bình lâu dài, bền vững, thông qua
sự hợp tác về giáo dục, khoa học, văn hóa, giáo
tiếp và thông tin” ; “Tầm quan trọng của Hội
thảo lần này (tại Đại Lễ Phật Đản) chính là ở
đây”.
Cái nhìn của
chúng tôi, có một sự kỳ thú qua hai Thông Điệp
này
Vâng, họ cũng là
hai con người, nhưng khác người thường, nên Lời
Chúc Tụng của họ mới gọi là Thông Điệp. Một -
của người đàn ông, hay nam giới, nam tử - giữ
trọng nhiệm Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc. Một -
của người đàn bà, hay nữ giới, nữ lưu - nắm
cương vị Giám đốc Tổ chức Văn hóa, Khoa học,
Giáo dục Liên Hiệp Quốc. Ông Ban Ki Moon người
Châu Á , Bà Irina Bokova người Châu Âu - tượng
trưng cho Đông Phương – Tây Phương, cho Da Màu –
Da Trắng. Đông – Tây đã gặp nhau. Da Màu – Da
Trắng đã gặp nhau.
Vâng, Đức Phật
Thích Ca Giáo chủ cõi Ta Bà đã nói: “Không có
hận thù khi dòng máu cùng đỏ. Không có ngăn cách
khi nước mắt cùng mặn. Tâm bình thế giới bình.
Hận thù không tiêu diệt được hận thù mà chỉ có
Từ bi mới xóa sạch được hận thù”.
Vâng, ý nghĩa
siêu tuyệt của Đạo Phật, rằng: người có Đông Tây
Nam Bắc nhưng Phật tánh không có Nam Bắc Đông
Tây, màu da có trắng đen vàng đỏ nhưng Phật tâm
đồng đẳng không màu. Nhân loại nhiều chủng tộc
quốc gia trên năm châu bốn biển, nhưng lương tri
hòa điệu giai tầng, tình người hòa chung sự sống.
Vâng, nếu các quốc gia dù liệt cường hay chậm
tiến mà không chạy đua theo bạo lực, vũ khí, hạt
nhân, nguyên tử, quốc phòng, mà dùng mọi nhân -
tài - vật - lực cho con người, cho sự sống, thì
hòa bình thế giới tự nhiên có mặt, mọi bất ổn
khu vực, liên quốc, đa quốc hay chiến tranh lạnh
chiến tranh nóng tự nhiên triệt tiêu. Hơn nữa,
các ngân khoản phí tổn khổng lồ bạch hóa hay úp
mở ấy, thiết nghĩ sẽ đủ và dư để san lấp hố thẳm
giàu – nghèo, để hàn gắn vết tích tang thươngm
xây dựng lại những thiên tai đã, đang và sẽ liên
tục liên hoàn xảy ra mọi nơi mọi lúc.
Cuộc đời, sự sống,
hành xử, đối đãi, tin yêu, tôn trọng, Đức Phật
đã ban Thông Điệp diễm tuyệt muôn đời.
Xã hội, thế giới,
nhân loại, nhân sinh, đạo đức, nhân bản, Đức
Phật đã ban Thông Điệp tuyết thế muôn năm.
Không
những Ngài chỉ ban Thông Điệp của Tình Thương,
Sự Sống, mà Ngài còn ban Thông Điệp hết khổ đau,
sống an lành, giải quyết được Sinh, Già, Bịnh,
Chết, dung thông Tứ Thánh Lục Phàm, mở rộng Sáu
Đường Ba Cõi, và phổ nhiếp càn khôn vũ trụ
vô lượng hằng hà sa số thế giới.
Thật vinh hạnh
cho những ai làm người con Đức Phật, ân đức cao
dày mới được làm đệ tử của Đức Từ Bi, căn duyên
gốc rễ nhiều đời mới tựu thành Trưởng tử Như Lai
trên hành trình giác ngộ, cứu nhân độ thế,
chuyển hóa quần sanh, nhập lưu Thánh Chúng.
Hỡi nhân loại và
hỡi chúng sanh! Thân người dễ gì có được. Phật
Pháp dễ gì sẽ gặp. Đạo Pháp dễ gì mới nghe. Phật
Đạo dễ gì mới thành.
Phật Đản quý vị
đã biết rồi. Đạo Phật quý vị đã nghe rồi. Chần
chừ gì nữa. Sang giàu và nghèo hèn ư! Quyền uy
và bạo lực ư! Chiến tranh và thù hận ư! Chủng
tộc và màu da ư! Địa bàn và giới tuyến ư! Gia
tài và sự nghiệp ư! Tài sắc danh thực thùy ư!
Nghĩa địa đã chật
mồ. Hồn ma luôn vất vưởng. Khói lạnh đống tro
tàn. Sống và Chết không có lằn ranh. Nghìn thu
và Thiên cổ đợi chờ. “Trăm năm còn có gì đâu,
Chẳng qua một nắm cỏ khâu ranh rì”, hoặc “Một hũ
cốt xương mờ dấu tích, Bóng hình ai nhòa nhạt
phôi pha, Cuộc đời tựa giọt sương sa, Nắng tan
đâu mất la đà về đâu, Mau mau tỉnh ngộ qui đầu,
Phật Đà vô thượng nhiệm mầu đẹp thay”.
Dâng lên cúng
dường, ngưỡng phục hồi quy, quay đầu bỉ ngạn,
chính là Thông Điệp của Sự Sống và Thông Điệp
Phật Đản muôn đời.
Hướng về Phật Đản
là hướng về sự thanh cao minh triết thường hằng.
Từng thời kỳ thời đại sẽ qua đi, từng chủ thuyết
chủ nghĩa sẽ xếp theo trang lịch sử, nhưng Thông
Điệp của Tình Thương của Trí Tuệ của An Lành
Giải Thoát miên viễn mọi không thời bất di bất
dịch, sẽ góp phần rất lớn, sẽ là nền tảng vững
chắc, và là chỉ hướng tuyệt siêu, không những
cho Thiên Niên Kỷ 3,000 mà vĩnh trụ thiên thu.
Viết cho Ngày Phật Đản 2635 - Phật lịch 2555
TNT Mặc Giang
|