Tính Dung Dị Của
Người Việt
Đào Văn Bình

Trong bài viết Người
Việt: Những Đức Tính Tốt và Xấu phổ biến trên
các diễn đàn vào ngày Mùng 4 Tết Kỷ Sửu 2009 tôi
đã đưa ra 10 tính xấu cũng như 10 tính tốt của
người Việt Nam. Nay tôi xin trở về với kho tàng
văn hóa dân gian của dân tộc tức Tục Ngữ và Ca
Dao để tìm hiểu những tính tốt mà những đức tính
này không phải chỉ là nền tảng cho sự thành công
của cá nhân người Việt mà còn giúp cả cộng đồng,
đất nước chúng ta:
- Dễ dàng hòa
nhập với cộng đồng thế giới
- Theo kịp đà
tiến hóa của nhân lọai, không bị lạc hậu / tụt
hậu.
- Giao hảo với
các nước láng giềng, sẽ không gây chiến tranh
tôn giáo hoặc can dự vào những cuộc chiến tranh
tôn giáo.
- Đất nước sống
trong hòa thuận và không làm khổ nhau.
- Gia đình là tổ
ấm tốt lành vì không bị ràng buộc bởi những quy
tắc đạo đức, và tín điều khắc nghiệt.
Cứ thử nhìn vào
sự thành công của khối ba triệu người Vịệt hải
ngọai trên mọi lãnh vực thì sẽ thấy. Ngòai sự
thông minh, hiếu học, cần cù chịu thương chịu
khó, chúng ta còn có những đức tính khác nữa làm
nền tảng cho sự thành công. Giả dụ, chúng ta có
đầy đủ những tính tốt nói trên, nhưng nếu truyền
thống văn hóa và con người chúng ta bị ràng buộc
bởi những tín điều hoặc qui tắc đạo đức khắc
nghiệt khiến xung đột với dân bản xứ. Khi xung
đột với dân bản xứ như vậy thì chúng ta chỉ còn
nước quây quần trong cái “ốc đảo” của mình. Và
như thế thì làm sao khá được? Giả dụ trong huyết
quản chúng ta có máu kỳ thị chủng tộc, giả dụ
chúng ta khó chơi, không chan hòa, cởi mở với
mọi người thì người Việt chúng ta có thành công
như ngày hôm nay không? Hỏi tức là trả lời.
Người Việt chúng ta chắc chắn không có những
tính đó.
Tôi dám bảo đảm
rằng nếu người Việt chúng ta sinh sống ở Ấn Độ
sẽ kiêng cữ không ăn thịt bò để không làm tổn
thương đến tín ngưỡng của dân bản xứ. Nếu có
sống ở một nước Hồi Giáo như Pakistan, Thổ Nhĩ
Kỳ v.v…cũng sẽ không ăn thịt lợn để xúc phạm đến
Hồi Giáo. Và hiển nhiên là người Việt đang sinh
sống ở Hoa Kỳ, Âu Châu, Úc Đại Lợi, Canada v.v…đã không
ăn thịt chó để chứng minh mình cũng biết yêu mến
súc vật như người ta.
Tục lệ phóng sinh
(thả chim, thả cá) trong những dịp cầu siêu cho
ông bà cha mẹ hay trong dịp Lễ Vu Lan là một cử
chỉ rất đẹp chứng tỏ người Việt rất yêu mến Tự
Do, không muốn ngay cả lòai vật chịu cảnh tù đày
“cá chậu chim lồng”. Có lẽ người Tây Phương nay
tìm hiểu văn hóa Việt Nam cũng phải kính phục.
Những đức tính tốt nói ở trên đó chúng ta có thể
dễ dàng tìm thấy trong ca dao, tục ngữ lưu
truyền hơn 4000 năm nay.
1. Tính
xuề xòa, dễ tha thứ qua câu tục ngữ “Chín bỏ làm
mười”. Dĩ nhiên trong toán học, trong kinh tế,
thương mại, ngân hàng, tài chánh thì 9 không thể
là 10. Chẳng hạn nếu chúng ta nợ nhà đèn 10 đồng,
chúng ta viết chi phiếu trả 9 đồng, chắc chắn
hóa đơn tính tiền tháng tới sẽ cộng thêm 1 đồng
mà chúng ta chưa trả. Nhưng trong cuộc sống, một
người nợ ta 1000 đồng, vì nghèo túng hoặc vì vợ
đẻ, con đau chỉ có khả năng trả 900 đồng thôi.
Do tấm lòng tốt ta có thể xí xóa cho họ 100 đồng
mà không lấy. Vậy với cái Tâm, bằng sự cảm thông
giữa con người và con người mà 9 đã trở thành
10 (chín bỏ làm mười). Trong cuộc đời này, bao
thảm họa, đổ vỡ, giết chóc xảy ra chỉ vì con
người khó mà nhường nhịn nhau. Như vậy trong lúc
tình hình căng thẳng, cãi cọ hơn thua nhau vì
một vài lời nói, vì chút lợi lộc nho nhỏ, nếu có
ai nhắc nhở ta hoặc ta nhớ tới câu “chín bỏ làm
mười” chắc chắn mọi chuyện sẽ diễn ra vô cùng
tốt đẹp.
2. Không
khắc nghiệt, không cực đoan qua câu nói “Càng
cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”. Khi chúng
ta cay nghiệt quá thì thế nào cũng tạo ra “oan
trái” oán hận và người đời sẽ tìm cách trả thù.
Một ông vua hà khắc thì tiếng oán than sẽ “thấu
trời đất” nếu có dịp dân chúng sẽ đứng lên lật
đổ họăc giết ông vua đó. Trong gia đình cũng vậy,
nếu cha mẹ khắc nghiệt con cái sẽ bỏ đi hoặc
sống trong địa ngục. Giáo sĩ dạy tín đồ những
tín điều cực đoan, khi vào đời tín đồ sẽ đụng
chạm với các tôn giáo khác và như thế xã hội,
đất nước sẽ vô cùng căng thẳng và có khi phải
chia cắt để biến thành hai, ba quốc gia cùng
chủng tộc, cùng ngôn ngữ, cùng văn hóa, cùng
lịch sử nhưng chỉ khác tôn giáo mà không thể
sống chung với nhau và có khi coi nhau như kẻ
thù “bất cộng đái thiên”! Hiện nay cả thế giới
đang phải đối đầu với những tư tưởng, tín điều
cực đoan hoặc văn hóa quá phóng túng. Chẳng hạn
như phụ nữ Âu Châu, Hoa Kỳ thì quá phóng túng.
Càng hở hang nhiều thì càng nổi tiếng và kiếm
tiền càng nhiều. Trong khi đó thì phụ nữ Hồi
Giáo lại buộc phải ăn mặc phủ kín từ đầu tới
chân. Hai thái cực này đụng chạm với nhau và đưa
tới chiến tranh - bề ngòai là chiến tranh tôn
giáo nhưng thực chất là xung đột về những giá
trị văn hóa, đạo đức. Tại sao con người lại
không thể tìm tới một giải pháp Trung Dung/Trung
Đạo (Middle Way) vừa vừa phai phải? Theo tôi,
thế giới Hồi Giáo, nếu chính quyền là một chính
quyền thế tục (không bị khống chế bởi tu sĩ) thì
từ từ họ sẽ cởi mở cho phụ nữ, nhưng con đường
phóng túng và sa đọa của Tây Phương và Hoa Kỳ
thì giống như chiếc xe lao xuống dốc mà không có
thắng.
3. Chừng
mực, không bức bách ai, không quá đáng qua câu
nói “Khó người khó ta, dễ người dễ ta” hoặc “Già
néo đứt giây” “Cắm sào sâu khó nhổ.” . Qua những
câu nói này chúng ta có thể tin chắc rằng trong
cuộc sống hằng này, ông/bà nào tính tình cởi mở,
dễ dãi thế nào cũng có nhiều bạn. Còn ông/bà nào
khó chịu, khắt khe thì chỉ có “ma” nó chơi với
mình. Trên trường quốc tế cũng thế. Một quốc gia
có nhiều nước tới làm ăn buôn bán là một quốc
gia giàu mạnh. Nếu mình đặt ra nhiều luật lệ
khắt khe quá thì thế giới họ cũng trả đũa lại.
Cuối cùng thì đất nước sẽ bị cô lập. Một đất
nước bị cô lập thì không chết thì cũng bị thương.
Cho nên mọi thứ trên cõi đời này cứ “vừa vừa
phai phải” là tốt nhất.
4. Thích
nghi với hòan cảnh mới, tình thế mới, thời đại
mới qua câu nói “Ăn theo thưở, ở theo thì”. Không
thủ cựu, không cứng nhắc. Đây là châm ngôn làm
nền tảng cho sự ứng xử trong mọi hòan cảnh.
Ngoài ra nó còn là sự tự chế, kiềm hãm những sở
thích của mình khi sở thích đó không thích hợp ở
một môi trường khác. Ở sao cho đẹp lòng người chứ không
phải để thỏa mãn lòng mình là cách sống thông
minh và tốt đẹp nhất. Chỉ sống cho mình, chỉ
biết có mình, không cần biết những gì xảy ra
chung quanh là chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá
nhân phóng túng cũng nguy hiểm như chủ nghĩa cực
đoan. Ở Việt Nam, quan niệm Gia Đình, Làng, Nước tưởng
chừng như những hàng rào trói buộc, nhưng thực
chất nó lại là một thứ nhắc nhở về trách nhiệm
khiến chúng ta không thể không thể không nghĩ
đến người khác. Khi nghĩ đến người khác, khi
nghĩ tới phong tục tập quán của người, văn hóa
của người, tôn giáo của người mà thích nghi thì
đó gọi là “Ăn theo thuở, ở theo thì”. Quan niệm
“phá chấp” của Phật Giáo thật phù hợp với tâm
tính của dân tộc Việt Nam.
5. Phê
phán đầu óc bảo thủ cứ mãi tiếc thương, tôn thờ
những gì thuộc quá khứ mục nát, hư hỏng qua câu
nói “Bảo hòang hơn vua.” Thái độ “Bảo hòang hơn
vua” sẽ làm cản bước đi lên của lịch sử, phân
hóa xã hội và
bất ổn chính trị khi đất nước vẫn còn những
người cứ mãi nuối tiếc một chế độ, một chính
quyền thối nát đã bị lật đổ, đào thải. Hiện nay
trong và ngoài nước vẫn còn một thiểu số
nuối tiếc dĩ vãng mục nát do được hưởng đặc
quyền đặc lợi nhưng tuyệt đại đa số thì muốn
chôn vùi quá khứ để nhìn về tương lai. Chúng ta
phải hiểu rằng tim hiểu và kế thừa lịch sử và nuối
tiếc dĩ vãng là hai chuyện hoàn toàn khác nhau.
Chẳng hạn tìm hiểu về Cuộc Trịnh-Nguyễn Phân
Tranh là chuyện cần thiết để rút ra bài học đoàn
kết đất nước nhưng thương nhớ Chúa Nguyễn ở Đàng
Trong hoặc Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài là nuối tiếc
dĩ vãng.
6. Khoan
dung, nhẹ tay, nặng về răn dạy hơn là trừng phạt
qua câu nói “Giơ cao đánh khẽ “ và “Chém đằng
sống chứ ai chém đằng lưỡi.” Điều này đã thấm
vào máu thịt dân tộc Việt Nam, không phải chỉ ở
hàng thứ dân mà ở cả vua quan nữa, điển hình như
đức nhân từ của Vua Lý Thánh Tông và Vua Lê
Thánh Tông qua Bộ Luật Hồng Đức. Sử Việt chép
rằng khi Vua Lý Thánh Tông ngồi xử án ở Điện
Thiên Khánh năm 1064 đã chỉ vào Động Thiên Công
Chúa đang đứng bên cạnh mình và phán với triều
thần “Trẫm yêu thương thần dân của trẫm cùng
nhiều như yêu thương con gái trẫm. Họ phạm tội
vì họ không biết (luật) và trẫm có nhiều tình
thương cho họ. Từ nay trở đi, trẫm muốn tất cả
các tội phạm, nặng hay nhẹ, đều phải được xét xử
với sự khoan hồng”.
7. Không
cầu tòan, không buộc ai phải giống mình, không
buộc ai phải tin điều mình tin, theo những gì
mình thích, tôn thờ những gì mình tôn thờ qua
câu nói “Bàn tay có ngón dài ngón ngắn” và “Cha
mẹ sinh con Trời sinh tính”. Quả đúng như vậy.
“Bàn tay có ngón dài ngón ngắn” trong gia đình
và xã hội cũng đều như vậy cả. Giả dụ mình là
người thông minh, nhưng đừng nghĩ ai cũng thông
minh như mình. Mình giỏi giang nhưng không phải
ai cũng giỏi giang như mình. Mình giàu có, sang
cả nhưng không phải ai cũng giàu có, sang cả như
mình. Nếu hiểu được như thế thì sẽ cảm thông,
chan hòa với mọi người. Thấm nhuần tư tưởng này
thì ngòai xã hội thì tìm cách giúp đỡ kẻ kém
thông minh, thiếu may mắn. Còn trong gia đình
thì không ép buộc con cái phải sống theo ước
vọng của mình bởi vì “Cha mẹ sinh con, Trời sinh
tính.”
8. Chớ có
tự thị, chớ có ỷ y, phải thận trong khi phê phán,
chê cười người khác qua câu nói “Cười người chớ
có cười lâu. Cười người hôm trước hôm sau người
cười”. Câu châm ngôn này thật chí lý và giống
như câu “Bảy mươi chưa què chớ khoe mình lành”
bởi vì phàm là con người (human being) thì ai
cũng mắc phải lỗi lầm. Hiểu được như thế thì
phải hết sức thận trọng khi phê phán, chê cười
người khác. Nếu có phê phán thì cũng nên nhẹ
nhàng chứ đừng đao to, búa lớn, bé xé ra to,
thêu dệt thêm vào đó - bởi vì ông bà chúng ta
nói rằng “Một lời nói là một đọi máu”. Một lời
nói nhẹ nhàng, an ủi giống như được tắm ở giòng
suối mát. Một lời chửi rủa, mắng nhiếc giống như
dao đâm vào da thịt, như mũi tên tẩm thuốc độc,
như lửa hắt vào mặt. Một lời vu oan giá họa
khiến người ta có thể lâm vòng tù tội. Một lời
vu khống, chụp mũ nếu viết ra thành sách, quảng
bá sâu rộng khiến tổn thương đến danh dự không
phải chỉ bản thân người nào đó - mà còn cả gia
đình người ta nữa và lưu lại đời sau. Trong một
xã hội văn minh, không có gì ghê gớm cho bằng “verbal
abuse” tức là mắng chửi người ta. Mình cứ tưởng
một lời nói sẽ qua đi như gió thỏang chăng? Thưa
không! Một lời chửi rủa, mắng nhiếc, thóa mạ sẽ
theo đuổi chúng ta mãi. Dường như nó cắn vào làn
da, sớ thịt làm cho chúng ta tủi hổ, nuôi dưỡng
trong lòng rồi từ đó sinh ra thù hận, báo oán.
Một xã hội tốt lành không phải chỉ là ăn sung
mặc sướng, luật pháp công minh, xã hội công bằng
mà con người cần phải đối xử dịu dàng với nhau.
Nặng lời, chửi rủa, nhục mạ, bêu riếu nhau thì
dù có ngồi trên đống vàng, đống bạc cũng chỉ là
ngồi bên lò lửa mà thôi.
9. Người
Việt chúng ta thích làm lành, sợ làm ác và sợ
quả báo qua câu nói “Đời cha ăn mặn, đời con
khát nước” và “Có đức mặc sức mà ăn”. Mà Đức ở
đây là gì ? Đức, hiểu theo nghĩa đơn giản nhất
là làm những gì tốt lành cho người khác. Cứ thử
tưởng tượng một người chuyên dùng của cải của
mình để xây trường học, xây chùa, nhà thương, cô
nhi viện, học bổng cho học sinh nghèo, cứu người
họan nạn, giúp đỡ kẻ vô gia cư thì uy đức của vị
này như thế nào? Chắc chắn vị này sẽ được mọi
người kính nể. Trộm cướp có lẽ cũng không dám
tới xâm phạm. Kẻ côn đồ, lưu manh muốn phá phách
cũng sẽ tìm chỗ khác. Khi đi ra ngòai đường thì
được mọi người chào hỏi, khi chết có khi sử sách
ghi công. Con cháu đời sau cũng được hưởng tiếng
thơm. Không những thế mà quỷ thần còn kính nể
“Đức trọng quỷ thần kinh.” Chính vì vậy mà người
Việt mình rất lo “Tu nhân, tích đức”. Ngòai ra
khi đã có Đức rồi thì có thể thóat qua nhiều
hoạn nạn, cải số trời – tưởng chết mà sống,
nghèo hóa thành giàu, thi rớt hóa thi đậu qua
câu truyền tụng “Đức năng thắng số” mà chúng ta
có thể tìm thấy trong rất nhiều chuyện cũ tích
xưa.
10. Người
Việt, theo truyền thống có một quan niệm rất
dung dị về tôn giáo cho nên không bao giờ tôn
thờ một Thần Linh Tối Thượng hoặc Độc Thần. Cho
dù Ông Trời có là một vị có uy quyền ghê gớm đi
nữa thì uy quyền này cũng đã được người Việt san
xẻ cho Đất. “Thuở trời đất nổi cơn gió bụi”. Một
mình Ông Trời không đủ khả năng để “nổi cơn gió
bụi” mà cần phải có Đất nữa. Khi chúng ta làm
điều gì mà không cần ai biết, chúng ta nói “Có
Trời biết, Đất biết”. Khi đau khổ chúng ta kêu
lên “Trời Đất ơi!”. Và sau này khi đạo Phật du
nhập vào đất nước ta, khi khấn nguyện điều gì
chúng ta nói “Xin Trời Phật chứng giám.” Vì ông
Phật không phải là thần linh tối thượng mà chỉ
là Một Vị Giác Ngộ cho nên khi đưa ông Phật vào
vị trí ngang với Trời, Đất, người Việt chỉ muốn
đưa thêm yếu tố Nhân vào trong lý thuyết Tam Tài: Thiên
Nhân Địa. Theo quan niệm này, Trời mà không có
Đất thì Trời cũng vô dụng. Đất mà không có Trời
thì Đất chỉ là một khối khổng lồ tối thui. Có
Đất, có Trời mà không có Người thì Đất Trời đó
chỉ là một hành tinh chết. Theo triết lý Tam Tài
thì ba yếu tố Thiên Nhân Địa không yếu tố nào
lấn lướt yếu tố nào, mà phải phối hợp hòan mỹ để
có cuộc sống tốt đẹp.
- Khí hậu, mưa
gió sấm chớp, nóng lạnh thuộc về Trời.
- Động đất, lụt
lội, cây cỏ, sông hồ, suối, biển, rừng, núi,
muông thú thuộc về Đất.
- Cầy cấy, điều
hòa khí hậu, quần tụ để phát triển, hạnh phúc
hay khổ đau, đạo đức, chiến tranh hay hòa bình
thuộc về Nhân (con người). Tuy con người rất yếu
đuối so với Trời và Đất nhưng không phải lúc nào
cũng phải cúi đầu tuân phục Trời, Đất mà có thể
“cải số Trời” , “Xưa nay nhân định thắng thiên
cũng nhiều” (Kiều). Khi Ông Trời làm điều gì quá
cay nghiệt, con người có quyền phàn nàn, than
trách “Trách Con Tạo đành hanh quá đỗi.” (Cung
Oán Ngâm Khúc). Câu chuyện Bánh Giày, Bánh Chưng
thời Hùng Vương cho thấy từ thuở ban sơ lập quốc,
người Việt đã coi Trời và Đất là hai vật tối
linh, biểu tương cho sự vận hành của Vũ Trụ và
cuộc sống của con người. Khi Đạo Phật du nhập
vào Việt Nam thì yếu tố “Phật” tức “Nhân” trở
nên hoàn thiện và giao hòa, trường tồn với
Trời-Đất.
Hiện nay cả nhân
lọai đang tiến vào giai đọan Toàn Cầu Hóa. Mà
Tòan Cầu Hóa chỉ có được, ngòai vấn đề giao
thương, các quốc gia cần có mối giao hảo với
nhau. Trong khi giao hảo như thế thì không thể
tránh khỏi những luồng giao lưu về tư tưởng, tôn
giáo và văn hóa. Chẳng hạn như Đạo Protestant
(Tin Lành), Đạo Thiên Chúa (Ca-tô Giáo La Mã)
cùng phong tục tập quán của Âu Châu, Hoa Kỳ sẽ
vào Á Châu, Iraq, Afghanistan, Iran v.v… và đạo
Phật, Hồi Giáo cùng phong tục tập quán sẽ vào
Hoa Kỳ và Âu Châu. Tín điều và qui tắc đạo đức
cực đoan sẽ làm cản trở cho tiến trình Tòan Cầu
Hóa và có nguy cơ đưa tới những cuộc xung đột xã
hội, xung đột tôn giáo.
Mới đây nhất nước
Pháp đã trải qua một cuộc xung đột về văn hóa
khi nữ sinh Hồi Giáo (Hồi Giáo chiếm khỏang 10%
dân số Pháp) đi học ăn mặc theo lối truyền thống
của phụ nữ Hồi với khăn trùm đầu. Trong khi đó
thì nam sinh Pháp lại đeo những thập giá quá lớn
khiến trường học Pháp có nguy cơ trở thành môi
trường chia rẽ. Tổng Thống Jacques Chirac đã
giải quyết vấn nạn này bằng cách vận động quốc
hội thông qua một đạo luật cấm nữ sinh Hồi Giáo
đội khăn khi đi học và nam sinh Pháp đeo chữ
thập quá lớn.
Rồi mới đây nhất
tại Hoa Kỳ, một phụ nữ da trắng cải đạo sang Hồi
Giáo khi xuống hồ tắm đã mặc nguyên bộ quần áo
phủ kín từ đầu tới chân với lý do đạo đức Hồi
Giáo không cho phép phụ nữ ăn mặc hở hang. Nhưng
ông chủ hồ tắm lại không đồng ý và cho rằng ăn
mặc như vậy mà xuống hồ tắm làm mất vệ sinh. Áo
tắm hai mảnh (Bikini) thì OK, cho nên đã mời bà
này lên. Người phụ nữ sau đó đã đi kiện với lý
do bị kỳ thị tôn giáo. Dĩ nhiên chuyện này đã
qua nhưng nó là dấu hiệu mở đầu cho thấy - có
thể có một cuộc xung đột về qui tắc đạo đức phát
xuất từ tôn giáo mà hơn 200 năm qua Hoa Kỳ không
bao giờ có.
Chẳng cần phải
học Đông học Tây, chẳng cần phải đợi ai đến “ khai
sáng văn minh”. Chỉ cần đào xới lại gia tài tục
ngữ ca dao do ông bà để lại, người Việt chúng ta
cũng đủ khả năng ứng phó với đời.
Dung
dị, cởi mở, chan hòa, chín bỏ làm mười trong
cuộc sống; không quá khích, không cực đoan trong
đạo đức và tôn giáo là những tính tốt lành nhất
và đang là những tiêu chuẩn đạo đức của thời đại
để thế giới có thể sống trong hòa bình,
trong tình huynh đệ. Tất cả những đức tính tốt
lành đó đều có trong con người Việt Nam.
May thay! Chúng
ta nên nhớ rằng “Vỏ quýt dày, móng tay nhọn”.
Các tôn giáo cực đoan, các nền văn hóa cực đoan
sẽ đối đầu với tôn giáo và văn hóa cực đoan và
sẽ tự hủy diệt lẫn nhau. Chắc chắn chúng ta
không muốn điều đó xảy ra trên đất nước Việt
Nam.
Đào Văn Bình


|