NGÔI CHÙA TRÊN
SÔNG
Vĩnh Hảo

Không có con
sông nào chảy ngang chùa. Cũng không phải là
ngôi chùa gỗ được thiết kế như một chiếc thuyền
trên sông. Nhưng chính nơi tên chùa, và tên của
thôn xã địa phương, đã diễn tả một cảnh sông
nước thơ mộng, mênh mông trong trí người đọc:
Chùa Huệ Hà, thôn Ngân Hà, xã Ninh Thủy (Hà là
sông lớn. Thủy là nước, trong một số trường hợp,
chữ này cũng được dùng để nói về sông sâu, biển
rộng). Thôn Ngân Hà, xã Ninh Thủy này thuộc
huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.
Huệ Hà. Tên chùa
nghe lạ và đẹp. Thực tế thì chùa tọa lạc trên
một vùng đất cát, cằn khô ở gần biển. Nhờ gần
biển nên có khí hậu thoáng mát quanh năm, nhưng
cũng không quá gần để trở thành khu du lịch nhộn
nhịp xô bồ. Gần chùa không có con sông nào cả.
Thế mà vẫn mang cái tên của sông. Tôi nghĩ có lẽ
nửa thế kỷ trước, vị thầy khai sơn chùa này đã
dựa nơi tên của thôn (Ngân Hà) mà đặt tên chùa (Huệ
Hà). Tên chùa đọc nghe có vẻ nhẹ nhàng, khiêm hạ.
Theo cách đặt pháp danh thì tên này dành cho
phái nữ, cho Ni giới. Nhưng không, đó là chùa
Tăng, đã trải qua mấy đời trụ trì Tăng. Từ sau
năm 1975, có nhiều năm chùa không có trụ trì,
chỉ có một vị tăng nào đó được cung thỉnh đến để
chủ lễ cho những dịp lễ lớn, mà ngay cả đạo hiệu
của các vị này, phật-tử địa phương ngày nay cũng
không nhớ.
Cho đến năm
2001, do sự giới thiệu của một bạn đạo tại
Sài-gòn, phật-tử địa phương đã cung thỉnh được
một sư cô về chùa. Sư cô lưu lại đây để hoằng
pháp đến nay đã gần 10 năm. Chùa Huệ Hà, như
chính tên gọi nhẹ nhàng ấy, mặc nhiên trở thành
chùa Ni kể từ đó.
Sư cô trụ trì
đạo hiệu là Thích nữ Minh Lạc, tốt nghiệp cử
nhân Phật học và Hán học tại Học Viện Phật Giáo
TP.HCM (Đại học Vạn Hạnh cũ). Sư cô hành điệu từ
nhỏ ở cố đô Huế, tu học và tốt nghiệp từ phố thị
(Sài-gòn), nay về hoằng pháp ở thôn xã nghèo ít
học, hẳn nhiên là phải gặp nhiều khó khăn,
chướng ngại. Khó khăn ở đây không phải là sự
gian khổ, đạm bạc và thiếu tiện nghi (mà người
xuất gia nào cũng quen nếp), mà chính là ở chỗ
phải chịu khó giáo hóa cư dân của một địa phương
ít người nào biết chữ, và hầu như không người
nào hiểu đạo. Nơi đây, chỉ có một số ít người
biết đến chùa lễ Phật, đơn giản là lễ Phật cầu
phước, cầu bình an và thuận lợi cuộc sống. Nghề
nghiệp chính của dân cư nơi đây là làm ruộng
muối, một số ít làm nghề chài lưới. Trường học ở
xa, học sơ cấp phải lên xã, trung cấp phải ra
huyện, cho nên hầu hết dân cư đều kém văn hóa.
Thời gian đầu Sư
cô gặp nhiều trở ngại về việc thỉnh chuông và
tụng niệm. Một số người ngoại đạo, hoặc không có
đạo, chống báng, phản đối, có khi chửi rủa. Lại
có chuyện giành đất, lấn đất chùa, đưa đến kiện
tụng. Sư cô phải hết sức ẩn nhẫn để vượt qua.
Cũng chính vì gặp nhiều chướng ngại ban đầu, sư
cô phát tâm xây dựng điện Quán Thế Âm phía bên
trái của ngôi chánh điện. Sư cô tâm niệm rằng,
Phật ngự trong chánh điện, người qua kẻ lại
không nhìn thấy; cho nên cần phải an vị các
tượng Bồ-tát ở sân chùa, sao cho khách vãng lai
trên trục lộ chính ngang chùa, đều nhìn thấy
buổi sáng khi họ đi làm, buổi chiều khi họ đi
làm về. Nhìn thấy Phật, tâm họ sẽ lắng bớt phiền
não, hoặc ít nhất cũng gieo được vào tâm họ hạt
giống Phật. Từ tâm niệm này, Sư cô an vị tượng
Bố Đại hòa thượng (mà phật-tử bình dân quen gọi
là Phật Di Lặc) ở sân trước chánh điện, và tiếp
theo là điện Quán Thế Âm vô cùng trang nghiêm,
cạnh vệ đường.
Mầu nhiệm thay,
theo lời Sư cô kể lại, từ khi điện Quán Thế Âm
được xây dựng, các việc chống đối phá hoại lắng
xuống nhiều, phật-tử đến chùa lễ Phật tụng niệm
đông và thuần thục hơn. Những thuận duyên lần
lượt đến với chùa, điển hình là việc người ta
lấn đất chùa, đã chịu trả lại; và giấy phép xin
trùng tu chùa đã bị bác bỏ nhiều năm, cũng đã
được cấp vào tháng 9 năm 2010.

Chùa như thế nào
mà cần trùng tu?
Chùa Huệ Hà được
xây năm 1961, 50 năm qua chưa một lần tu bổ, nay
đã bị hư dột nặng nề, mái và vách mục nát, chắp
vá loang lổ từ ngoài vào trong. Chánh điện bị
dột ngay nơi bàn Phật và rải rác vài nơi khác,
khi trời mưa thì nước ngập lai láng.
Chùa có quả
chuông nhỏ chừng 100 kí-lô đã bị rè, khi gióng
chỉ kêu lên một tiếng "beng", không còn ngân. Sư
cô Minh Lạc nói, "khi thỉnh chuông lòng không
an, cứ sợ chuông bể. Mà ở thôn xóm này, rất là
cần tiếng chuông. Phần là để đánh thức dân trong
thôn dậy làm việc, phần khác cũng là đánh thức
tánh Phật của họ." Tôi thầm nghĩ, "trong khi các
chùa ở hải ngoại có chuông lớn, tiếng ngân hay,
mà không dám gióng (vì sợ phiền hàng xóm) thì ở
nơi thôn nghèo này, được quyền gióng chuông sớm
hôm mà lại không có chuông."
Cổng tam
quan của chùa cũng bị rạn nứt, có thể gây nguy
hiểm cho người qua lại, phải tô gạch áp sát cạnh
bên để giữ cho cột khỏi sập, khiến mất thẩm mỹ.
Xin được giấy
phép đại trùng tu rồi, Sư cô Minh Lạc bắt đầu
vận động tài chánh để chuẩn bị công trình, và
cuộc vận động này phải khởi từ những người quen
biết nào đó nơi thành phố (Nha Trang, Sài-gòn),
chứ chính quyền địa phương đã có lệnh bằng miệng
là không được quyên góp trong thôn xóm. Giấy
phép xây cất này lại giới hạn trong vòng một năm,
cho nên dù thế nào cũng phải khởi công, vì nếu
để hết hạn một năm (chưa khởi công xây dựng) thì
phải nộp đơn xin phép lại từ đầu với nhiều thủ
tục rắc rối, mà chưa chắc xin lần thứ hai lại
được chấp thuận. Thế nên, Sư cô Minh Lạc phải
khẩn cấp tìm người bảo trợ.
Duyên lành đến
với Sư cô vào tháng 5 năm 2011 với sự phát tâm
của một phật-tử tại Hoa Kỳ, tài trợ 10 nghìn Mỹ
kim để khởi công xây móng. Đến tháng 6 thì ngôi
chùa hư dột từ thế kỷ trước để lại, đã được san
bằng. Sau đó, Sư cô Thích nữ Minh Lạc đã cung
thỉnh chư Tăng đến chứng minh lễ đặt viên đá đầu
tiên khởi công xây cất, lễ khai móng, đặt móng.
Nhìn những tấm
ảnh với ngôi chùa cũ biến mất để lại một khu đất
trống lởm chởm xà-bần và cát biển, tôi có cảm
giác ngậm ngùi thế nào ấy. Cảm giác tợ như khi
nghe tin chùa Hải Đức Nha Trang bị san thành
bình địa rồi cất lên một ngôi chánh điện hoàn
toàn mới, kiến trúc mới, không lưu lại chút gì
của ngôi chùa cổ trăm năm trước đó. Nhưng Sư cô
Minh Lạc nói với tôi qua điện thoại: "Chùa Huệ
Hà này không phải chùa cổ trăm năm như chùa Hải
Đức, kiến trúc của nó cũng đơn giản là một chùa
quê, không có nét đặc thù gì của một di tích
lịch sử cần bảo quản. Chùa đã quá hư nát, rất
nguy hiểm để sinh hoạt tụng niệm trong đó, không
thể chắp vá, tu bổ hoài được; cần phải xây mới
lại hoàn toàn, nhưng kiến trúc mới sẽ là kiến
trúc truyền thống theo chùa Huế xưa. Hơn nữa, dù
ngôi chùa cũ bị san bằng nhưng cái hồn của nó,
tôi đã giữ lại."
Tôi nghe nói vậy
thì giật mình hỏi:
"Cái hồn như thế
nào? Sư cô đã giữ được gì?"
Sư cô bình thản
trả lời:
"Dạ, thì những
câu đối của chùa, tôi giữ lại để treo cho ngôi
chùa mới sau này."
"À, thì ra vậy,
tôi không nghĩ ra. Sư cô có thể nào chép lại cho
tôi đọc thử mấy câu đối của chùa không?"
Sư cô chép đủ
bốn cặp câu đối từ ngoài vào trong chánh điện,
vừa chữ Hán, vừa phiên âm và dịch nghĩa, rồi gửi
qua cho tôi bằng điện thư. Đúng là một cử nhân
Hán học. Cô thật giỏi. Nhưng điều làm tôi an tâm
và vui mừng là Sư cô một mình dấn thân nơi thôn
ruộng muối này với tâm chí thật vững chãi, bền
gan và kham nhẫn, để vượt qua những khó khăn,
chướng ngại. Và điều đơn giản mà tôi học được từ
Sư cô là những câu đối của chùa có thể được xem
như là tâm chí, đường hướng, là cái hồn của ngôi
chùa đó.
Đây, cái hồn của
chùa Huệ Hà mà Sư cô Minh Lạc giữ lại làm vốn
liếng, hành trang cho ngày mai:
Huệ nhật triệu
Kỳ-viên thuyết pháp lợi sanh khai giác lộ
Hà dục thí bảo
phiệt hưng từ tế chúng độ quần mê.
Sư cô dịch
thoát như vầy:
Mặt trời trí tuệ
tại Kỳ-viên, thuyết pháp lợi sanh khai mở đạo
giác ngộ
Tắm gội trong
dòng sông chánh pháp, khởi lòng từ bi cứu khổ độ
quần mê.
Mặt trời ở câu
trên là chỉ Đức Phật. Con sông ở vế dưới là sông
Pháp.
Chùa Huệ Hà,
không có sông nào chung quanh, nhưng có con sông
Pháp đêm ngày được khơi nguồn và lưu dẫn từ một
ni cô nhỏ nhắn, tay yếu chân mềm mà chí nguyện
bền vững, vượt lên những chân trời cao viễn.
Nhưng chí nguyện
cao vời thế nào thì thực tế vẫn cần sự trợ giúp
của chư tôn đức Tăng Ni và thập phương bá tánh.
Công trình xây dựng chùa Huệ Hà chỉ mới khởi sự
với việc đúc móng đổ nền. Sư cô nói số kinh phí
còn lại sẽ tiếp tục vận động từng ngày, từng
tháng; có tiền thì tiếp tục, không tiền thì tạm
ngưng, cho đến khi nào hoàn tất. Hiện tại, chùa
Huệ Hà đã dùng phòng khách làm chánh điện tạm để
tụng niệm hàng ngày.
Tôi chắp tay cầu
nguyện cho việc xây cất ngôi chánh điện chùa Huệ
Hà gặp được thuận duyên để Sư cô và phật-tử sớm
được tụng niệm lễ bái nơi một Phật điện trang
nghiêm, và dân thôn xóm mỗi ngày có thể nghe
được tiếng chuông ngân khi bình minh lên và
hoàng hôn xuống.
Kính cẩn viết
đôi lời giới thiệu đến chư tôn đức và quí bạn
đạo khắp nơi.
California, ngày 19.6.2011 (Vía Đức Bồ-tát Quán
Thế Âm)
Vĩnh Hảo

Sư cô Thích Nữ Minh Lạc
(Nguyễn Nguyễn
Linh Chi)
CHÙA HUỆ HÀ
Thôn Ngân Hà, xã
Ninh Thủy,
huyện Ninh Hòa,
tỉnh Khánh Hòa - Việt Nam
Điện thoại chùa:
(+84) 583 849 859
Điện thoại:
(+84) 122940.9409


|