DÂNG HOA MÙA AN
CƯ KIẾT HẠ
Trần Kiêm Đoàn

Hoa Vô Thường
Trước
những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật hiện đại ngày một xuất hiện nhiều sản phẩm
cứu người và giết người tân kỳ mới lạ, con người
thường xuyên đứng trước những ngã ba đường của
sự chọn lựa thiện ác, khen chê. Đồng thời, sự
chuyển biến quá nhanh chóng và tinh vi trong hai
lĩnh vực giao thông vận tải và truyền thông đại
chúng đã làm cho thế giới thành một “Làng Địa
Cầu”.
Lạ thay, thực tế
trái ngược với ước vọng thường tình, con người
càng dễ tiếp cận với nhau chừng nào thì sự cảm
thông càng giảm xuống mà xung đột lại càng tăng
lên. Thông tin càng nhanh thì sự hiểu lầm càng
phát sinh tương ứng. Phải chăng tốc độ vật lý
không theo kịp tốc độ tâm lý của con người.
Sự phát
triển và chuyển hóa của Đạo Phật Việt Nam cũng
không thể nào bước ra ngoài hay vượt lên trên
những va chạm xã hội hay dính mắc tư duy của
trào lưu lý tính và tâm linh chung. Hơn thế nữa
là hiện trạng lĩnh vực truyền thông đang phát
triển còn nhanh hơn cả cấp số nhân. Nó đã tạo ra
nhiều thuận lợi nhưng cũng lắm hệ lụy. Lượng
thông tin trên trang mạng internet đang ồ ạt
chinh phục tâm thức và trí tuệ con người.
Google, Yahoo, Firefox, Youtube, Twitter,
Facebook... có nhiều “tín đồ” và cư dân trên
mạng đông hơn cả tín đồ của Phật, Chúa, Mohamed
cộng lại. Màn ảnh nhỏ vi tính đang chinh phục
loài người bằng tốc độ của Superman và đôi mắt
thấy xa nghìn dặm của Tề Thiên Đại Thánh. Lượng
thông tin tung ra không kiểm chứng và không có
trách nhiệm có khả năng càng ngày càng trở nên
một đống rác khổng lồ; mặc dầu trong đó cũng
lóng lánh vô số những hạt minh châu của thông
tin và tư tưởng. Nhưng liệu bao nhiêu phần trăm
dân cư trong thế giới mạng internet tìm đến
những hạt minh châu mà không bị vấy bẩn bởi sự
cuốn hút đầy thô bạo của rác rưởi?
Nếu nói
đạo Phật là đạo của trí tuệ thì đồng thời không
thể quay mặt phủ nhận được một thực tế là đạo
Phật đang đứng trước những thách đố của nếp sống,
thông tin và tư tưởng thời đại. Trước mọi hoàn
cảnh nói chung, 3 khuynh hướng bảo thủ, cấp tiến và trung
dung bao giờ cũng hiện ra lù lù để cản đường hay
khai thông trước mọi thay đổi. Một tổ chức
nghiên cứu tôn giáo hàng đầu thế giới, PEW, đã
tìm thấy rằng, trong đời sống tâm linh tôn giáo
nói chung, khuynh hướng bảo thủ (conservative)
chiếm 83% trong giới tu sĩ và 72% trong giới tín
đồ. Với đạo Phật Việt Nam, rất có thể con số nầy
sẽ cao hơn vì ảnh hưởng của một bối cảnh văn hóa
làng xã, gia trưởng và nền tảng kinh điển Hán
Tạng còn quá nặng nề.
Tuy
nhiên, sức mạnh chi phối của môi trường sinh
sống, hoàn cảnh xã hội và điều kiện kinh tế mới
có sức mạnh quyết định trong thời hiện đại.
Hiện
tượng cá nhân tu sĩ “ra chùa”, hiện tượng Phật
sự càng ngày càng đa đoan về chuyện cúng dường,
xây dựng, gây quỹ, xưng tụng chức danh... là một
hậu quả không thể thay đổi ngược lại bởi tác
dụng đầy vũ bão và quyết định của nếp sống cá
nhân chủ nghĩa và kinh tế thị trường phương Tây
vào sinh hoạt tôn giáo. Các khuynh hướng bảo thủ,
trung dung, cấp tiến thảy đều bị cuốn phăng vào
dòng cuồng lưu của tính thực dụng.
Nghĩ đến cơn lốc
thời đại, kẻ đang viết những dòng này lắng lòng
tưởng nhớ đây đang là thời điểm truyền thống
thiêng liêng của đạo Phật Việt Nam: Đó là thời
kỳ An Cư Kiết Hạ. Theo giới luật, chư Tăng Ni
bất luận tuổi tác hay thứ bậc trong đạo, đểu
phải quy tụ về chùa (từ 4 vị trở lên) để tu học
điều tâm dưỡng trí trong 3 tháng Kiết Hạ. Năm
nay, nhân mùa Hạ về hưu, người viết có dịp đi
nhiều chùa ở California và miền Đông nước Mỹ.
Được nghe, thấy và gặp gỡ với nhiều giới Phật tử
để lắng lòng suy gẫm “những điều trông thấy”.
Nhìn tới nhìn lui,
loanh quanh những thành phố đông người Việt ở
Hoa Kỳ và Hải Ngoại, tôi bỗng cảm thấy bầu không
khí trầm hương và không gian tĩnh lặng của chốn
cửa thiền chỉ còn là một hoài niệm khói sương
trong miền quá khứ.
Triều Dương có
hai câu thơ thật xót xa:
“Từng cuối tháng
cộng trừ con số nợ.
Thì đường xưa mây
trắng cũng thôi bay!”
Nợ ngân hàng, nợ
bảo hiểm, nợ thuế, nợ điện, nợ nước, nợ gas, nợ
phone, nợ xe, nợ hương đèn hoa quả, nợ ăn, nợ
uống, nợ lễ hội vãng lai... có Thầy, Cô nào làm
chủ chùa mà không lo và có chùa nào tránh khỏi.
Có chăng một xã hội thực dụng đã hạ thấp và giới
hạn chân trời cao rộng của tâm linh sâu thẳm
xuống ngang tầm với những con số hàng ngày nên
“giải thoát” đồng nghĩa với “giải nợ”?!
Và, một câu hỏi
nghiêm trọng được đặt ra là trong một xã hội
thực dụng phương Tây, khi muốn giữ cho thiền môn
thanh tịnh và Tăng Bảo trang nghiêm thì “cái gì
cần phải được ưu tiên hóa trước nhất trong từng
cặp phạm trù phủ định lẫn nhau – có cái nầy thì
mất cái kia – như: Tín tâm hay tín dụng; tịnh
tài hay tịnh hạnh; khất sĩ hay khất tài...?”
Được làm Đồng ấu
Phật tử từ năm lên 7 tuổi ta, tôi có được gần 30
năm sinh hoạt Phật tử ở quê nhà và 30 năm sinh
hoạt Phật tử ở quê người. Thời gian không hẳn là
thước đo đáng tin cậy của những điều trải nghiệm
có giá trị thực chứng, nhưng ít ra cũng ít viễn
mơ hơn là đeo kính cận viễn thị vào thư viện để
tìm hương vị của một ao sen thơm ngát từ bùn.
Hằng năm, sau lễ
Phật Đản (60 năm trước là mồng tám tháng tư ta)
thì tới mùa An Cư Kiết Hạ của hàng Phật tử xuất
gia – chư tăng ni – theo truyền thống đạo Phật
Bắc Tông như ở Trung Quốc và Việt Nam. Đức Phật
đã phát huy tinh hoa của tư tưởng chiêm nghiệm
tự tại vốn có từ lâu đời trong nếp sống tâm linh
Ấn Độ. Đó là khi hành giả tạm dừng chân để suy
niệm và nhìn lại chính mình trong quá trình hành
hóa tâm linh. Hành giả trong bất cứ tôn giáo nào
đều phải tự độ mình trước mới có đủ năng lực độ
tha giúp người.
Nếp sinh hoạt tâm
linh truyền thống của Ấn Độ trong mùa An Cư (từ
khoảng giữa tháng 6 đến tháng 9 âm lịch) không
hẳn là vì lý do thời tiết hay vì lòng từ bi tế
vật, sợ ra ngoài dẫm đạp lên côn trùng nhỏ bé
trên đường theo khuynh hướng diễn giải qua Hán
Tạng Đại thừa của Phật giáo Trung Hoa. Nguyên ủy
sâu xa nhất vẫn là nhu cầu tịnh hóa – gạn đục
khơi trong – dòng chảy của tư tưởng và tâm linh. Tâm
ý con người như những dòng sông trôi chảy và
biến động không ngừng nên rất dễ bị hoàn cảnh
lôi kéo và khuấy đục.
Mùa An Cư ở Ấn Độ
và Á Đông chính là thời điểm sinh hóa phát tiết
cao nhất trong năm. Thiên nhiên tạo vật tưng
bừng sống dậy. Năng lực tự nhiên của con người
và vạn vật cũng theo đó mà nẩy nở vươn lên. Thái
Hư Đại Sư nói về mùa Kiết Hạ rằng: “An Cư Kiết
Hạ là mùa gặt quý như châu báu của hành giả tiến
tu. Trong cái chung có cái riêng và trong cái
riêng có cái chung. Tăng ni tập trung về một nơi
an tịnh như am miếu, chùa chiền, tự viện hay
một chốn thuận lợi và thích hợp để giúp nhau
định tâm, khai ý kiểm nghiệm tiến trình trau
giồi giới, định, tuệ; kịp thời cầu sám hối những
sai phạm và phát huy năng lực hành trì. Nhưng
quan trọng nhất là mỗi thiện giả có một không
gian riêng trong tâm để sống đời đạo hạnh cho
riêng mình. Hiểu được mình và chiến thắng chính
mình là “chiến công” oanh liệt nhất. Phật đã dạy
như vậy.”
Thời đại khoa học
kỹ thuật ngày nay đang làm ô nhiễm ngưỡng cửa
truyền thống vào nội tâm: Chiến thắng người,
vinh danh mình, miễn sao có lợi nhuận càng cao
mới là... chiến công càng oanh liệt nhất. Tình
trạng tha hóa – đánh mất chính mình vì mất chìa
khóa nội tâm – đang trở thành một vấn nạn, một
nan đề của nếp sinh hoạt trong xã hội mang nặng
tính thực dụng hiện hữu.
Phần
đông, những người theo đạo Phật thường bị ám ảnh
bởi thời Mạt Pháp. Dẫu chẳng có một mốc thời
gian rõ ràng quy ước như lên lịch, nhưng khái
niệm “mạt pháp” thường được nói lên như một báo
hiệu trước những ngã rẽ khó khăn để tránh một
cận ảnh thoái trào của đạo Phật. Người ta tin
rằng, thời Mạt Pháp, nhiều Chư Thiên và Bồ Tát
xuống trần hóa độ chúng sinh. Bởi tùy duyên mà
hóa độ nên thế gian có bao nhiêu điệu sống thì
sẽ có bấy nhiêu hạnh Bồ Tát hóa thân. Trong đó,
những Bồ Tát nghịch hạnh và thuận hạnh xuất hiện
giữa đời thường ứng hợp với cảnh đời xuôi ngược
gây ra cảnh vàng thau lẫn lộn. Tuy nhiên, định
luật khách quan, tự nhiên và không để lọt một tơ
hào của Nghiệp Lực chung cuộc lại rất rạch ròi
và công bằng với tất cả mọi người ở dưới bất cứ
danh vị và hình tướng nào.
Mùa An
Cư Kiết Hạ năm nay, tôi dành nhiều thời gian đến
chùa lễ Phật, nhưng chưa được dâng hoa lên chư
tôn đức và tăng ni đang “Vô Hạ” như một thời
tuổi trẻ trên quê hương của tôi ở Huế. Thuở ấy,
quý ôn Linh Mụ, Báo Quốc, Từ Đàm, Châu Lâm, Từ
Hiếu, Tây Thiên, Trà Am, Viên Thông, Trúc Lâm,
Diệu Đế... là những minh sư trong mùa Kiết Hạ.
Các ngài đều đã ra đi. Còn chăng thế hệ kế thừa
vẫn còn giữ những ngọn đèn thắp sáng.
Hoa Kỳ,
cái xứ mà tôi sinh sống đã 30 năm, đang ở giữa
mùa “vào Hạ” mà tôi lại có cảm tưởng như các
chùa đang “ra Hạ”. Quý Thầy, chư Tăng Ni, phần
đông, ai cũng có vẻ tất bật với “Phật sự đa đoan”
trong mùa Hè. Đến viếng các chùa, đã một tháng
rưỡi sau ngày Phật Đản, tôi chưa có duyên lành
gặp được chùa nào đang có khóa an cư. Tôi
tìm thấy bảng niêm yết các chương trình tu học
thì ít mà các dự án gây quỹ, xây dựng, cúng
dường thì lại quá nhiều. Khủng hoảng thừa hay
khủng hoảng thiếu thảy đều là khủng hoảng.
Khủng hoảng là một nguy cơ. Nhưng không sao, vì
trong gian nguy đã có mầm cơ hội.
Vô thường không
hẳn là bất thường vì đấy là lẽ bình thường của
cuộc sống. Một dòng sống đầy biến động và biến
chuyển. Không ai có thể ngồi lại bên cầu để mong
tắm lại lần nữa trên cùng một dòng sông thuở nọ.
Hoàn cảnh thay đổi, sinh hoạt Phật giáo cũng
phải biến chuyển là một nguyên lý khách quan và
tất yếu. Nhưng nguyên lý tùy duyên, bất biến vẫn
là xương sống trong suốt cuộc hành trình mấy
nghìn năm của đạo Phật.
Khi
không gặp được điều mình mong ước mà phải gặp
quá nhiều điều mình chẳng ước mong thì chỉ còn
vái giữa thinh không vắng lặng mà liên tưởng đến
một đóa Vô Thường.
Hoa Bình Thường
Trở lại
với khuôn khổ và bối cảnh sinh hoạt của đạo Phật
Việt Nam, giới Phật tử có khuynh hướng trung
dung hay ở cả hai cực lạc quan hay bi quan về
hiện trạng và tương lai của đạo pháp đều có
chung một mối quan tâm thiết thân rằng: Đạo Phật
Việt Nam chưa theo kịp đà thay đổi của con người
và hoàn cảnh. Dẫu rằng, tôn giáo không thể là
một dòng chảy mang tính chất phong trào thời
thượng và bất luận lý thuyết tôn giáo nói về
nguồn gốc của tôn giáo mình xuất phát từ đâu,
nhưng thực tế thì tôn giáo vẫn là một sản phẩm
của con người. Vì vậy, bản chất đích thực của
tôn giáo không thể thoát ly ra ngoài xã hội con
người. Ngay cả những tôn giáo chủ trương xuất ly
thế gian thì hành giả vẫn cần thế gian để tồn
tại. Trong lúc Phật giáo Việt Nam xiển dương tín
lý Đại Thừa, khởi tâm Thiền Tịnh song tu. Thế
nhưng những hiện tượng nhập nhằng đem Đạo vào
Đời; đem Đời vào Đạo vẫn còn... lờ mờ nhân ảnh
là do đâu?
Thực tế trong
cũng như ngoài nước Việt Nam cho thấy rằng, thế
hệ Chiến Tranh Việt Nam đang ra đi và thế hệ Hậu
Chiến Tranh Việt Nam của tuổi trẻ đàn em đang
vào đời. Thế hệ đàn anh đã trãi nghiệm một dòng
đời thăng trầm đầy biến cố trong một giai đoạn
lịch sử không thiếu tính hào hùng nhưng cũng lắm
màn đổi trắng thay đen, ba chìm bảy nổi của đất
nước và dân tộc. Đối diện với những hệ lụy của
cuộc sống, con người có nhu cầu an nghỉ và khai
sáng tâm linh. Đối diện với tuổi già và cái
chết, con người càng tha thiết muốn “đầu tư” cho
cuộc sống phục sinh hay luân hồi mai sau. Tôn
giáo là một đáp án và cũng là nguồn đáp ứng sáng
giá, vừa vặn nhất cho những nhu cầu tâm linh và
thân mạng trong dòng sinh diệt vô thường như thế.
Đấy cũng là điều lý giải cho hiện tượng thế giới
trí thức phương Tây đang tìm về đạo Phật ngày
một đông. Đồng thời, trong cũng như ngoài nước
Việt, nhu cầu tu học đạo Phật ngày càng phổ biến
và lan rộng trong đại chúng.
Trước hoàn cảnh
xã hội đổi thay như chong chóng và sự phát tâm
tu học của đại chúng ngày càng cao, đạo Phật
Việt Nam nếu không có hướng chuyển biến thích
hợp thì sẽ bị kéo theo đuôi của sự chuyển biến
tự nhiên không thể nào dừng lại. Cổ xe Đại Thừa
đáng lẽ phải do chư tôn cao tăng thạc đức cầm
lái để chở đại chúng về bờ giác ngộ; nhưng nếu
Tăng Bảo thiếu pháp lực và pháp uy, thì sẽ phát
sinh đối lực ngược lại. Ngoại đạo sẽ dành tay
lái thì cổ xe đã không tới được Bến Giác mà còn
quay lại Bờ Mê. Ngoại đạo không phải là người
ngoài đạo Phật mà chính ngay hàng Phật tử xuất
gia và tại gia không an trú trong giới luật, đi
ngược đường tu hay lệch hướng Chánh Đạo.
Ba ngôi Tam Bảo
có thể hình dung Phật Bảo là ngọn núi Tu Di,
vững chãi như một chân lý nhiệm mầu. Pháp Bảo là
biển Ta Bà gồm đủ thánh phàm, hải sản trân châu,
kình ngư ác điểu và luôn những bè nổi, ghe
thuyền để chở chúng sinh về núi Tu Di. Tăng Bảo
gồm những người biết chèo chống bè nổi và ghe
thuyền trên biển Ta Bà, đóng vai thuyền trưởng
để đưa chính mình và người tới bến bờ chân núi
Tu Di.
Khi quần sinh
mong cầu vượt biển càng đông, vai trò và tiềm
năng của Tăng Bảo càng muôn vàn khó khăn phức
tạp. Hiện tượng phổ biến nhất trong lịch sử Phật
giáo từ xưa đến nay, trên mọi xứ sở và xã hội,
là khi Tăng Bảo không còn hòa hợp gây cảnh thiền
môn mất thanh tịnh, Tăng Bảo hết trang nghiêm
thì đạo Phật trong xứ sở và xã hội đó sẽ bị
thoái trào. Lịch sử đạo Phật toàn cầu và Việt
Nam đã trải qua bao lần thăng trầm, hưng vong
như thế. Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi
sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì
cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
Chỉ có điều đáng tiếc là khi một thế hệ lâm vào
cảnh nổi sóng xô bồ thì con người ở trong thời
điểm đó bị thiệt thòi vì không có được lợi lạc
tìm cầu Phật đạo hợp cảnh, đúng người để được
khai thị và hóa độ.
Một nguyên tắc đã
quá xưa cũ nhưng vẫn còn chí lý: “Khi không thay
đổi được hướng gió thì phải điều chỉnh lại thế
đứng của cánh buồm”.
Ngọn gió 4 phương
đã đưa Phật giáo Việt Nam hôm nay thành một tập
thể tăng ni và tín đồ “đa lưu chi”; nghĩa là
nhiều nguồn, nhiều nhánh, nhiều bộ phái, tông
môn. Nhìn theo khuynh hướng Bảo Thủ thì một tập
thể đa dạng là một sự phân hóa và suy yếu về mặt
tổ chức. Nhìn theo khuynh hướng Trung Đạo thì đó
là sự phát triển tùy duyên. Nhìn theo khuynh
hướng Cấp Tiến thì đây là một sự phát triển hợp
với nhu cầu chuyên hóa và đa nguyên trong thời
đại mới. Chỉ trên bề mặt nổi của báo chí truyền
thông thôi thì Phật giáo Việt Nam Hải Ngoại đã
có hàng chục giáo hội. Những danh xưng đang xuất
hiện luân lưu thường được nhắc đến là:
- Giáo hội Phật
giáo Việt Nam trên Thế giới
- Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất Văn phòng 2 Viện Hóa
Đạo
- Giáo hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại
Lợi – Tân Tây Lan
- Giáo hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ
- Giáo hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu
- Giáo hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Canada
- Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống Nhất Đan Mạch
- Tổng hội Phật
giáo Việt Nam
- Giáo hội Tăng
già Khất sĩ Thế giới
- Giáo hội Tăng
già Du tăng Khất sĩ
- Giáo hội Tăng
già Việt Nam
- Tăng Ni Việt
Nam Hải Ngoại
- Cộng đồng Phật
giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ
- Giáo hội Phật
giáo Thiền tông dòng Lâm Tế và Pháp Nhãn
- Giáo hội Phật
giáo Nhất tông đời Trần
- Giáo hội Tịnh
Độ Tông Việt Nam
- Giáo hội Phật
giáo Mật Tông Thế giới
- Giáo hội Phật
giáo Hòa Hảo
- Giáo hội Phật
giáo Cao Đài...
Nếu đi xa hơn nữa
vào sinh hoạt địa phương và các tông phái của
cộng đồng người Việt Hải ngoại, các tổ chức Phật
giáo tự lập và sinh hoạt độc lập theo quy chế tự
do lập hội của xã hội phương Tây thì con số
“giáo hội” sẽ còn tăng gấp nhiều lần và đang
trên đà phát triển. Đó là một thực tại không thể
đảo ngược theo chiều hướng “vạn pháp quy nhất”
về mặt cơ chế cấu trúc và phát triển. Cần có một
cái nhìn thực tế và xây dựng hơn là nuôi ảo vọng
chinh phục và tóm thâu về một mối bất cứ dưới
hình thái nào trong một xã hội đa nguyên.
Mỗi tổ chức trên
đây đều sinh hoạt như một giáo hội độc lập vì
được pháp luật nơi cư trú cho phép và bảo vệ; có
quần chúng và có địa bàn hoạt động riêng; đồng
thời, có toàn quyền hành xử và quyết định về cả
5 mặt cốt lõi cho một cơ sở giáo hội biệt lập:
Nội quy, Tài chánh, Tổ chức, Kiến thiết và Nghi
lễ. Như vậy, vấn đề của chúng ta không phải là
quay về quá khứ để hỏi “Tại sao?” mà phải hướng
tới hiện tại và tương lai để giải quyết vấn đề “Làm
thế nào?”
- Làm thế nào để
trong một xã hội đa chủng, đa dạng như xã hội Âu
Mỹ, Phật giáo Việt Nam có một thế đứng chính
đáng. Lỡ khi “tối lửa tắt đèn” như trường hợp bị
tranh chấp, kỳ thị, phá hoại, ngược đãi, chống
báng... từ trong nội bộ hay ra ngoài tầm can dự
của pháp luật thì sẽ có chỗ dựa để giúp nhau tồn
tại và phát triển.
- Làm thế nào để
phát huy tiến trình Tu và Học trong cộng đồng
Tăng chúng, Cư sĩ và Phật tử. Giới Tăng Ni cao
niên, có bề dày công hạnh và trí lực đầy phong
độ một thời, nay đang yếu dần về cả thân lẫn trí
theo quy luật tự nhiên của vòng sinh, lão, bệnh
tử. Thế hệ tu sĩ và Phật tử trẻ tuổi đang thiếu
một chỗ dựa tinh thần và tâm linh tinh túy trong
tiến trình tu học. Đó là là định lực sâu dày của
các bậc cao tăng thạc đức, công hạnh tôn túc của
các bậc chân tu và thân giáo tròn đầy của những
vị thầy khai thị. Hệ quả tất nhiên là khi thiếu
vắng một nội lực để phát triển bề sâu, người
muốn tu phải quay ra phát triển bề mặt. Ngày xưa
khi đức Phật còn tại thế, tăng đoàn và các đạo
sĩ thời danh ở Ấn Độ phủi bỏ bề mặt để tiến vào
bề sâu. Đức Phật và thánh chúng đắc đạo dưới gốc
cây, chứng ngộ dưới những bóng mát đơn sơ của
thiên nhiên rừng núi vì chỉ có an trú trong từ
bi, trí tuệ và thanh tịnh thì hành giả mới tìm
lại được chính mình. Ngày nay, không ít những
hành giả đang làm ngược lại vì bị thu hút và
dính mắc vào những giá trị thô lậu của đời
thường. Người ta đem hình tướng chùa to tượng
lớn để thuyết phục nhau và đổ xô đi tìm Phật ở
trong chùa; qua giấy mực, ngôn từ và ảnh tượng.
Vô hình chung, chân Phật đích thực ở trong tâm,
trong tự tánh mỗi ngày một lu mờ vì bị vùi sâu
dưới những lớp bụi hình tướng giả ảnh.
- Làm thế nào để
nhiều “giáo hội” trên hình thức, hóa giải và kết
hợp với nhau thành một tổ chức tương đối mang
tính biểu tượng của Giáo Hội thực sự, có pháp
lực và pháp uy, phù hợp với quan niệm hội đoàn
hiện đại: Hòa hợp nhưng không bị hòa tan. Nghĩa
là việc tham gia kết hợp của các tổ chức, đoàn
thể vào “Hội Mẹ” là hoàn toàn xuất phát từ căn
bản tự nguyện và tinh thần trách nhiệm. Mỗi
“giáo hội” thành viên vẫn có quyền giữ danh xưng,
vị thế và tình trạng pháp lý của tổ chức mình.
Không một thế lực đơn phương nào có quyền giải
tán, khống chế hay áp đặt tùy tiện mà không
thông qua sự biểu quyết của một đại hội đồng
giáo hội. Đây quả là một vấn đề khá phức tạp và
“nhạy cảm” trong tương quan sinh hoạt của cộng
đồng Phật giáo Việt Nam ở nước ngài hiện nay.
Trước nhu cầu hóa giải xung đột về mặt cơ cấu và
tổ chức, có thể tham khảo thêm hình thức “Liên
Hội” theo mô thức Liên Hội Tin Lành Châu Mỹ
(Coalition of Christian in America)do mục sư Pat
Robertson khởi xướng vào thập niên 1980 tại Hoa
Kỳ.
- Làm thế nào để
giúp nhau thay đổi cách nhìn cũ và xây dựng một
cách nhìn mới mang tính hóa giải, hòa đồng và
đoàn kết thật sự: Đoàn kết không phải là theo
tôi mà phải là cùng tôi. Đoàn kết không phải là nhất
trítheo đuôi mà cần phải đa trí đồng tâm.
Trên bề
mặt, tưởng như sinh hoạt Phật sự hài hòa với câu
khẩu hiệu vàng son lấp lánh 9 chữ kim cương“Đạo
Phật là đạo của Từ Bi Trí Tuệ”. Thế nhưng đạo
Phật Việt Nam thật sự đang trải qua một cơn
khủng hoảng. Sự khủng hoảng ngấm ngầm hay bộc
phát, hiện nguyên hình hay tiềm ẩn nhưng đang
biến nhiều nhân vật Phật giáo thành “Thiên thần
đi trên nạng gỗ”. Đây là một ẩn dụ nói đến những
người tôn giáo trong cơn khủng hoảng mà John
Milton trong trường ca Thiên Đường Đã Mất gọi là
“Thánh què đu trên cái nạng 3 chân”. Tuy Phật
giáo chưa có ai “què” hẳn theo biểu tượng Milton
vì chẳng có Thiên Đường nào để mất; nhưng đang
bị dính mắc vào những đối tượng phi Phật giáo và
đeo quá nặng hành lý phàm trần nên bước đi khập
khiễng thì... hóa ra hơi nhiều:
* Hiện tượng dính
mắc vào quyền thế vay mượn: Sự dính mắc trực
tiếp hay gián tiếp; hữu ý hay vô tình vào chính
trị và kinh tế của các tu sĩ, cư sĩ và Phật tử
là một hình thức quyền thế vay mượn vì lý tưởng
của đạo Phật là buông bỏ để cầu giải thoát chứ
không phải níu kéo để sở đắc. Đã có không ít các
nhân vật Phật giáo bị những thế lực lợi dụng
niềm tin tôn giáo thiêng liêng, biến sức mạnh
tâm linh thành một phương tiện sở đắc quyền lực
phàm phu hay nhân danh tu sĩ và Phật tử để kinh
doanh dưới nhiều nhãn hiệu và hình thức. Bản
chất của chính trị là sách lược và đòn phép. Làm
chính trị mà thiếu xảo thuật sẽ không khá hơn
Thằng Mõ lớn tiếng rao tin làm cái loa cho thế
lực cầm quyền sai vặt. Phật giáo ngày nay đang
tự đánh mất vai trò cao đẹp là một chỗ dựa tinh
thần, một sức mạnh tham vấn hộ quốc an dân cho
giới cầm quyền như thời đại Lý Trần. Bản chất
kinh tế thị trường thời nay là phải làm ra lợi
nhuận bất chấp phương tiện. Làm kinh tế trong
tôn giáo là biến những pháp tướng, pháp danh
thành thành thương hiệu.
* Hiện tượng dính
mắc vào
quyền lợi nhất thời: Sự dính mắc vào những giá
trị phàm trần. Cụ thể là tu sĩ bị cuốn hút vào
sức mạnh vật chất đời thường như tiền bạc, tài
sản, danh vị, hội đoàn, tiếng tăm, chùa to tượng
lớn. Tinh túy của đạo Phật là lý tưởng giác ngộ,
giải thoát. Hiện tượng ngã sở, ngã chấp, ngã
mạn... đang quay cuồng theo chủ nghĩa thực
dụng của thời đại mới. Nếp tu hành mà không bức
phá ra khỏi vòng trói buộc phàm tục nầy thì con
đường thanh tịnh thiền môn sẽ biến thành “đại lộ
kinh hoàng của hoa sen trong biển lửa.”
* Hiện tượng dính
mắc vào quyền lực ảo tưởng: Sự dính mắc vào những
định kiến và cố chấp phi Phật giáo có vẻ như
càng ngày càng khó hóa giải. Đã có hiện tượng
“môi hở răng lạnh” trong nội bộ Phật giáo và
“dậu đổ bìm leo” trong mối tương tác giữa Đạo và
Đời. Sự mạo phạm qua những lời xúc xiểm tấn công
nhau công khai giữa hai hay nhiều tổ chức Phật
giáo trên môi trường truyền thông đại chúng hiện
nay là biểu hiện tiêu cực nhất trong sinh hoạt
cửa thiền xưa nay. Tư tưởng thì đã có Kinh luận,
giềng mối thì đã có Giới luật, ấn chứng thì đã
có Tam pháp ấn. Chỉ làm thân thêm động và tâm
bớt hỷ xả khi còn “hạ thủ công phu” tấn công
nhau qua các nhãn hiệu tự chế như: “Giáo gian,
tiếm danh, tăng thượng mạn, ngã mạn, gian tăng,
phàm tăng...”. Sẽ chẳng ích lợi gì khi dùng
những lời tương tự như thế vì dán nhãn hiệu và
chụp mũ nhau là dấu hiệu yếu đuối của tri thức,
bế tắc về lý luận và nghèo nàn về nhân tâm. Nếu
mục đích chỉ gây thêm phiền não cho nhau và càng
ngày càng chia rẽ nhau hơn thì cửa chùa có hơn
gì cửa ngục tù nghiệp báo.
Đang giữa mùa An
Cư Kiết Hạ, người Phật tử xin đảnh lễ, khiêm
cung dâng lên chư tôn thiền đức những tràng hoa
như thế này để thay cho một lời thỉnh nguyện.
Đồng thời, xin nhất tâm cầu nguyện hồng ân Tam
Bảo tỏa chiếu năng lượng lành giúp Phật tử và
thân hữu ở mọi vị thế nhìn hoa mà suy gẫm. Thách
thức của thời đại mới là đem Đạo vào Đời; không
đem Đời vào Đạo. Đạo giữa phàm trần: Đạo và Đời
sẽ nở hoa. Phàm trần giữa đạo: Đời và Đạo sẽ ủ
mặt, phôi pha.
Sacramento, mùa
An Cư Kiết Hạ 2011
Trần
Kiêm Đoàn


|