NGƯỜI RA ĐI THẬT
RỒI SAO?
Thành
kính tưởng niệm Giác Linh cố Hòa Thượng thượng
CHÍ hạ NĂNG
THÍCH ĐỒNG TRÍ
Cách đây mấy hôm, vào một buổi sáng, khi tôi
đang dạo bộ ngoài sân Chùa, chợt có một vị Tăng
ngừng xe hơi gấp, bước vào hỏi:
- Thầy có nghe tin tức gì chưa?
- Tin tức gì vậy?
- Thầy Chí Năng viên tịch rồi!
- Viên tịch? Sao vậy? Có thật không?
- Nghe nói vậy đó, Thầy liên hệ xem sao.
Thật khó mà tưởng tượng là Thầy Chí Năng đã viên
tịch. Xin được gọi Cố Hòa Thượng Thích Chí Năng
bằng tiếng “Thầy” đầy thân thương ân tình, gần
gũi như tôi vẫn thường gọi Ngài khi còn tại thế.
Bởi lẽ Thầy vừa đến tuổi 62, trông bên ngoài vẫn
còn khỏe mạnh, nhanh gọn, minh mẫn lắm. Tôi tìm
cách liên hệ về Chùa Đại Bi Quan Âm – Nam
California thì được xác nhận về tin tức này. Mấy
ngày nay tôi miên man suy nghĩ, hồi tưởng và
những hình ảnh của Thầy như một cuốn phim hiện
về tâm trí tôi…
Lần đầu tiên tôi biết đến Thầy là lúc Thầy về Tu
Viện Nguyên Thiều, Bình Định năm 1993, thăm lại
quê hương, chư Tôn Đức, quay phim và chụp hình
cảnh sinh hoạt Trường lớp và Tăng Ni sinh Tu
Viện Nguyên Thiều để mang về Hoa Kỳ cho TT.
Thích Minh Dung và Ban Bảo Trợ cũng như nhiều
người khác xem cho biết. Hiện nay, những bức
hình trang nghiêm có đầy đủ chư Tôn Đức Bình
Định và Tăng Ni Sinh khoá I, Trường Trung Cấp
Phật Học Nguyên Thiều, nơi tượng Phật Thích Ca
lộ thiên, vốn xuất phát trong dịp đó.
Những năm đầu tại Hoa Kỳ, tôi ở Chùa Lục Hòa,
Boston, Massachusetts. Mỗi năm, Thầy đều đến
Trung Tâm Thiền Cambridge do Thiền Sư Sùng Sơn –
Hàn Quốc sáng lập ( Cambridge, 199 Auburn
Street, Cambridge, MA, of Zen Master Seung Sahn)
để tham dự khóa tu thiền và hướng dẫn các thiền
sinh. Thầy liên hệ rủ tôi cùng đến trung tâm
Thiền này. Thầy hướng dẫn tôi cách lên Thiền
đường, cách ngồi thiền, cho đến cách ăn uống tự
phục vụ, sinh hoạt…
Có lần Thầy dẫn tôi vào hội trường nghe một Đạo
Sư diễn thuyết về Thiền. Tôi liên tục đặt những
câu hỏi, đòi hỏi sự logic, duy lý trong việc
diễn giải về Thiền. Khi ra ngoài, tôi hỏi Thầy
nhận xét gì về diễn giả và những thắc mắc của
tôi. Thầy mỉm cười đáp: “Về mặt lý luận mà nói,
Thầy thông minh, sắc sảo, lý luận vững vàng
nhưng về mặt hành giả mà nói thì Thầy chưa đạt
đến chỗ tinh yếu của Pháp môn Thiền này.” Tôi
lẳng lặng ghi nhận và thầm hứa với lòng sẽ “hạ
thủ công phu” nhiều hơn nữa.
Những lúc tôi về Chùa Quang Thiện, Ontoria,
California tham dự Lễ cúng giỗ Sư Phụ tôi, đệ
nhất trụ trì Tu Viện Nguyên Thiều và Lễ Thọ
Tang, Truy Niệm đức đệ tứ Tăng Thống GHPGVNTN,
cố HT Thích thượng Huyền hạ Quang, lòng tôi
thật nhiều xúc cảm khi lắng đọng hòa âm với Thầy
Sám Chủ Thích Chí Năng xướng lễ. Âm điệu của
Thầy trầm bỗng, du dương, lạ thường, đậm đà âm
vị Bình Định, biểu hiện được tâm tư tình cảm của
Thầy dành cho các bậc Ân Sư.
Sau đó, tôi có đến thăm Chùa Đại Bi Quan Thế Âm.
Sở dĩ Chùa có tên như vậy ắt hẳn bởi vì Thầy y
chỉ và học đạo với Thiền Tổ Sùng Sơn, năm 1999
ngài được Thiền Tổ Sùng Sơn Hạnh Nguyện đời thứ
78 thuộc dòng thiền Quan Âm Tào Khê ở Hàn Quốc
ấn khả. Với hạnh nguyện Từ Bi Quan Âm độ sanh mà
Thầy “ứng thân thị hiện”, "nơi nào chúng sanh
cần thì ta đến", tuy Thầy từng lưu trú nhiều
chùa khác nhau nhưng không trụ chấp một nơi nào,
cuối cùng Thầy chọn vùng sa mạc xa xôi ít người
lui tới ở San Bernadino này làm nơi cư trú, tu
tập và hoá độ những ai có duyên. Nơi này phù hợp
với hạnh thiểu dục, tri túc, ưa thích tịnh cư
nơi vắng vẻ, chuyên sâu thực tập quán chiếu,
hành trì của Thầy.
Dịp Xuân Tân Mão, tôi về thăm lại quê hương và
thăm phụ thân tôi đang lâm bệnh nặng sau khoảng
thời gian dài xa cách. Tôi lại có duyên cùng ở
chung với Thầy tại phòng khách số 2, Chùa Giác
Uyển, Phú Nhuận, Saigon. Những ngày đó, Thầy
chia sẻ, tâm tình với tôi nhiều việc về cuộc
sống tu học và hoằng Pháp. Thầy có giới thiệu
cho tôi về sinh hoạt Phật sự tại một cơ sở tự
viện tại San Jose - California. Tôi có thưa với
Thầy là sau chuyến đi Vietnam, trở lại Hoa Kỳ,
tôi sẽ đến xem cơ sở đó thế nào rồi tùy duyên
định liệu. Trong dịp này, một Sư Đệ của tôi,
Thích Đồng Viên, cùng tháp tùng với TT. Thích
Viên Định từ Chùa Giác Hoa đến Chùa Giác Uyển
tham dự Lễ Huý Kỵ Giác Linh 3 Vị Hòa Thượng Tôn
Túc Bình Định trong ngày mồng 06 tháng Ba, Tân
Mão, Thầy có hỏi về tình hình tu học và đường
hướng tương lai của Sư Đệ đó, rồi khuyến bảo:
“Các Thầy trẻ học được như vậy là khá rồi đó.
Việc quan trọng hơn nữa là phải tu tập. Các Thầy
có thể giảng nói cho người khác về Đạo Pháp
nhưng có bảo đảm là điều phục được chính mình,
phiền não, khổ đau hay chưa? Nếu chưa thì hãy cố
gắng tu tập”. Sau đó, Thầy “lì xì” cho Đệ Đồng
Viên một “chút quà” để kỷ niệm và hỗ trợ việc tu
học.
Tôi được nghe kể lại, Thầy có duyên nghe được,
ghi chép và ca ngợi 4 câu thơ của tôi làm khoảng
18 năm trước:
“Bất bình là luỵ với trần ai
Hãy mỉm cười lên, bước bước dài
Như hoa dẫu nở trong mùa Hạ
Vẫn vẫy tay chào với gió mai.”
Tôi cũng chẳng hiểu tại sao mấy câu thơ mộc mạc
này của tôi lại được Thầy ưa thích như vậy. Có
lẽ Thầy tu Thiền nên thích những điều giản dị và
đoạn thơ phù hợp với hoàn cảnh đối diện thực tại,
rèn luyện tự thân, vượt qua nghịch cảnh của Thầy.
Phần tôi có duyên đọc được và tâm đắc với bài
thơ “Cảm Đề” do Thầy sáng tác :
“Bạn tự tại dạo chơi miền Tịnh Độ
Tôi âm thầm dạo bước cõi tử sanh
Trên trời xanh thạch sư vờn vân cẩu
Đáy biển sâu nê ngưu giỡn thủy thần
Rời Tịnh Độ, bạn thổi tiêu không lổ
Bỏ luân hồi, tôi đàn cầm không giây
Khắp ba cõi tánh Di Đà rực rỡ
Tận lục phàm vô lượng hoá Kim thân
Hạnh "Nam Mô" châu biến hải vi trần
Nguyện "Chơn Ngã" vẹn phần vô sở đắc
Tâm "Chỉ vật" Pháp Tịnh thiền Viên Đốn
"Ta là gì" thành đạo cứu quần sanh.”
Quả thật, nếu không có công phu miên mật, không
thấu triệt được bản chất cuộc đời, không đạt
được tự tại, thảnh thơi, không có đại lượng, đại
bi, đại nguyện cứu độ quần sanh thì không thể
cảm tác được những câu thơ đầy ý vị siêu phàm
thoát tục như vậy, cũng như không thể luận giải
nổi về hành trạng và tu chứng của Tổ Sư Thiền
Liễu Quán như Thầy đã trình bày trong tác phẩm:
“Liễu Quán Thiền Tông Pháp Môn Tu Chứng”.
Trong dịp xuống Nam Cali thăm HT Thích Nguyên
Lai cuối tháng 06/2011 vừa qua. Một buổi
sáng,trong khi chờ đợi 2 vị Thầy từ San Diego
đến Santa Ana rồi cùng tôi về lại San Jose, tôi
chợt nghĩ đến Thầy nhưng lúc đó không có sẵn xe
để đi thăm Thầy. Tôi tự bảo với lòng mình là đến
cuối tháng 07/2011, nhân chuyến đi Phật sự tại
Chùa Xá Lợi và các Chùa tại Nam Cali trong 5
ngày thì sẽ đến thăm Thầy. Nhưng dự định này mãi
mãi sẽ không còn thực hiện được nữa rồi. Có
chăng là thăm lại ngôi Chùa xưa, phương trượng,
hương án, di ảnh di vật của Thầy mà thôi.
…Thế là hết. Thầy tự kết thúc hành trình kiếp
nhân sinh của mình. Kể từ đây làm sao có được
những giây phút hầu trà đàm Đạo với Thầy để nghe
Thấy nhắc nhở về lý tưởng sống của người xuất
gia? Tôi có nghe kể lại việc Thầy điện thoại
thăm Mẹ và gia đình báo trước sự chia ly cũng
như viết di chúc căn dặn các điều cần thiết sau
khi Thầy ra đi. Như vậy, Thầy rất bình tĩnh, cân
nhắc và chủ động trong việc xả bỏ báo thân ngũ
uẩn, vô thường tạm bợ này để bước vào một hành
trình mới, một hoá thân mới trong một phương sở
mới.
Có thể
có nhiều người bàn tán xôn xao, bình luận, thị
phi, dị nghị về sự “từ trần bất thường” của Thầy
nhưng Thầy xưa nay vốn không quan tâm đến dư
luận thế gian, chỉ như là tiếng gió xôn xao hoặc
bọt nước đầu ghềnh mà thôi. Nếu như chúng ta
chưa đạt đến đẳng cấp như Thầy thì làm sao hiểu
hết mà bàn về việc làm của Thầy? Trong Thiền
Tông và hạnh nguyện Bồ Tát há chẳng phải là đã
có những câu chuyện “bất bình thường” hay sao,
như trường hợp tiền thân Đức Phật bố thí
thân mạng cho cọp đói, Pháp Sư Cưu Ma La Thập
nhận 10 cung nữ, đòn gậy của Thiền sư Đức Sơn,
Tiếng Hét của Thiền Sư Lâm Tế, Thiền Sư Nam
Tuyền giết mèo, hành hoạt của Tế Điên Hòa Thượng…
Họ sẵn sàng chấp nhận những nhân quả xảy ra với
họ, điều họ quan tâm là khai thị, để lại bài học
cho đại chúng.
Đó chính là phong cách: “Gặp Phật giết Phật, gặp
Tổ giết Tổ”, không câu nệ, chấp chặt về hình
thức, lối mòn, đầy sáng tạo và ấn tượng trong
Thiền Tông:
“Làm trai có chí xông trời thẳm,
Theo bước Như Lai luống nhọc mình.”
Không phải tôi tán thán và khuyến khích sự kết
liễu cuộc sống và ra đi này của Thầy. Nếu ai
chưa đạt được đến trình độ tu tập và không ở
trong tư thế hoàn cảnh như Thầy thì không nên
bắt chước làm theo Thầy. Tuy nhiên, hình ảnh
suốt cuộc đởi của Thầy và ngay cả phương cách
Thầy chọn ra đi để lại cho chúng ta tấm gưong
sáng với nhiều bài học về: thế gian đầy rẫy
những cạm bẫy, nguy hiểm và khổ đau, cơn lốc vô
thường có thể cuốn chúng ta đi bất cứ lúc nào,
hãy chọn pháp môn thích hợp tu tập, tinh tấn,
nhiệt tâm ngày đêm công phu, thực hành, chính
Thầy nhiều năm tháng hành trì Thiền Tọa không
nằm ngủ, sanh tử sự đại, phải nắm cho được giềng
mối để vượt thoát, không nên dễ duôi, buông lung
phóng dật, chạy theo dục lạc, danh lợi, địa vị,
chấp trước và ràng buộc…
Tôi đang trầm tư về sự thị hiện. Người mang hạnh
nguyện Bồ Tát đến và đóng vai trò gì đó trong
cuộc sống, khi chúng sanh cần thì đến và ra đi
khi mọi việc đã xong. Giữa lúc thế cuộc phân
phi, bao nhiêu tranh chấp, nhiều người đang giả
trang thiền tướng, chen lẫn vào hàng Phật tử,
Tăng già, giả điều nhân nghĩa, bày vẽ phong trào,
phô trương hình thức, mưu toan lợi tộc, củng cố
địa vị… làm biến hoại Phật Pháp thì sự hiện diện
của Thầy vẫn có nhiều ý nghĩa, tác dụng, cớ sao
Thầy lại chọn thời điểm này mà ra đi?
Sự ra đi của Thầy là một tổn thất lớn lao, thật
khó tìm ra hình ảnh ai với cốt cách như Thầy để
thay thế. Tuy nhiên, quyển sách hay đến đâu rồi
cũng đến hồi kết thúc, vở kịch tuyệt vời đến mấy
rồi cũng đến lúc hạ màn. Dù rằng: “Thân người
khó được, Phật Pháp khó gặp”, chúng ta không thể
đòi hỏi Thầy làm tất cả mọi việc với một thân
mạng này. Duyên đã mãn, những việc cần làm đã
làm xong, Thầy xả bỏ huyễn thân này, qua sông bỏ
thuyền, chúng ta cũng đừng nên đòi hỏi Thầy phải
như thế này hay như thế khác, làm gì nhiều hơn
nữa cho chúng ta, bởi vì chúng ta không phải là
Thầy thì làm sao hiểu hết được tâm sự của Thầy?
Hơn nữa, nếu như Thầy an nhiên thị tịch thì điều
này cũng đã có nhiều người từng làm, đâu có để
lại những bài học đầy ấn tượng cho chúng ta? Xưa
kia, Ngài La Hầu La thường có những hành động
trái nghịch nhờ đó mà chúng ta có được những bài
học bất hũ thế thì hôm nay Thiền Sư Chí Năng
cũng thị hiện một đoạn kết éo le để nhắc nhở
chúng ta về Tam Pháp Ấn - khổ, vô thường, vô ngã-
về sức mạnh của nghiệp, về mỏng manh nguy hiểm
của côi dục, ngũ trược ác thế, về Khổ Tập Diệt
Đạo…
Phật Pháp có 84.000 ngàn Pháp môn, mỗi người có
một công hạnh khác nhau, có người lại có nghịch
hạnh nữa. Người đã ra đi nhưng người vẫn còn ở
lại. Tôi cảm thấy phần nào trống vắng mỗi khi
trở lại Nam California mà không còn Thầy để đến
thăm và hầu chuyện nữa. Thế nhưng hình bóng
Người đã in đậm trong tâm khảm tôi, luôn văng
vẳng bên tai tôi lời nhắc nhở thường trực: “cõi
đời tạm bợ, phù du, phỉnh phờ, hãy miệt mài, hạ
thủ công phu, siêu sanh, thoát tử, tu làm sao
chuyển nghiệp, quỷ vô thường không chờ đợi một
ai, học mà không tu thì cũng như cái đãy đựng
sách, nói nhiều mà không làm thì thà rằng nói ít
mà làm nhiều, phải thời thì đến, hết duyên thì
đi, đừng trụ chấp, luyến tiếc mà phải bị buộc
ràng, hãy tinh tiến lên để giải thoát, không ai
làm thế phần cho ai, Như Lai và các bậc tiền bối
Tổ Sư chỉ là những bậc Đạo Sư chỉ đường mà thôi”
“Thư bất tận ngôn”, “lời quê góp nhặt dong dài”
này là tấm lòng thành và nén hương đưa tiễn cho
bước đăng trình, trước khi di thể Thầy trở về
cát bụi. Tôi mãi mãi tri ân duyên hạnh ngộ với
Thầy trong cuộc sống, những bài học rút ra từ
Thầy, tôi nguyện sống xứng đáng với hạnh người
con Phật trong cuộc thế đầy nhiễu nhương, phức
tạp như những lần đã từng tâm sự với Thầy. Cầu
nguyện hồng ân Tam Bảo gia bị cho Thầy : hạnh
nguyện bất thối, phổ độ quần sanh, công viên quả
mãn, tuỳ sở trụ xứ thường an lạc.
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Tứ Thế, Đại
Bi Quan Âm Đường Thượng Trú Trì, húy thượng
Nguyên hạ Bàng tự Chí Năng hiệu Giác Hoàng, tân
viên tịch Hoà Thượng Giác Linh
Chùa Hồng Danh, San Jose, ngày 14/07/2011
Khể Thủ
TK. Thích Minh Tuệ
(Thích Đồng Trí)
========================
|