TIỂU SỬ

CỐ HOÀ THƯỢNG THÍCH ĐỒNG THIỆN

Môn Đồ Pháp Quyến

Hòa Thượng thế danh Trần Đình Hiếu, sinh năm Nhâm Tuất (08/04/1922) tại thôn Vạn Hòa, xã Ân Hảo, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ Trần văn Duệ pháp danh Thị Hộ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Long pháp danh Thị Kính.

Xuất thân từ gia đình thuần kính Tam Bảo, thế tộc đã nhiều đời thấm nhuần đạo lý Phật gia, vì thế năm vừa lên 9 tuổi gia đình đã sớm tạo nhân duyên để cho Ngài quy y Tam Bảo. Lúc bấy giờ Hòa Thượng Tổ Đình Thiên Bình húy thượng Như hạ Từ hiệu Tâm Đạt truyền pháp quy y cho Ngài với pháp danh là Thị Công tại chùa Thanh Sơn thôn Thanh Lương xã Ân Tín, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.

Năm Qúy Dậu, 1933 Hòa Thượng xuất gia đầu sư tại chùa Thanh Sơn với Ngài thượng Thị hạ Thường hiệu Chánh Nguyên, đương thời trú trì thâu nạp với pháp danh là thượng Đồng hạ Thiện. Tòng học với Bổn sư chưa được bao lâu, do nhiều chướng duyên làm trở ngại bước đường học vấn nên Hòa Thượng được Bổn sư bố trí vào huyện An Nhơn để tiếp tục thế học và Phật học. Trong thời gian nầy Hòa Thượng được sự giám hộ của Ngài Tâm Đạt Tổ đình Thiên Bình.
      Năm Nhâm Ngọ (1942) tại Tổ đình Hưng Khánh huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định mở trường Hương giới đàn tái thí do Hòa Thượng húy thượng Chơn hạ Hương, hiệu Chí Bảo làm đường đầu. Do nhiều nghịch duyên, Bổn sư của Hòa Thượng còn trú trì chùa Thanh Sơn và cũng không liên lạc được để xin thọ đại giới, Hòa Thượng tác pháp với Hòa Thượng Tâm Đạt, húy thượng Như hạ Từ Tổ đình Thiên Bình, huyện An Nhơn để y chỉ và cầu thọ đại giới. Từ thời gian này Hòa thượng chính thức được Ngài Tâm Đạt cho lưu thông pháp danh truyền thừa là thượng Thị hạ Công, hiệu Trí An và thọ đại giới tại giới đàn Tổ đình Hưng Khánh huyện Tuy Phước. Tuy nhiên để tỏ lòng hoài niệm Bổn sư, Hòa Thượng vẫn dùng pháp danh Đồng Thiện là tên tự phổ thông cho đến cuối đời.

Năm Qúy Mùi, 1943 đến năm Giáp Ngọ 1954 Hòa Thượng học Phật pháp với chư vị cao đức trong địa phận huyện An Nhơn và huyện Tuy Phước, thường xuyên tham vấn, lưu học tại các Tổ đình Hưng Long, Thanh Quang huyện An Nhơn, Tổ đình Thiên Đức huyện Tuy Phước và nhiều tự viện khác...Tham gia tổ chức tập thể Tăng" Chúng Lục Hòa" để thực hiện tinh thần thượng cầu hạ hóa thường sinh hoạt tại Tổ đình Tịnh Liên thị trấn Bình Định huyện An Nhơn. Lưu ngụ và bán chính thức trú trì chùa Hồng Liên thị trấn Bình Định để tạo thuận duyên trau dồi thế học tại trường giòng thánh Giu-se thuộc Kim Châu Bình Định.

Năm Giáp Ngọ 1954 đến năm Mậu Tuất 1958, sau hiệp định Geneva phân chia đất nước 1954, Hòa Thượng cùng một số pháp hữu thanh niên đương thời tòng học lớp Tăng Học Đường Trung Việt tại chùa Long Sơn thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa do Tổng hội Phật giáo Trung phần điều hành. Lúc bấy giờ do Đại Lão Hòa Thượng hiện vẫn còn sinh tiền là Ngài Huyền Quang húy thượng Như hạ An làm giám đốc. Học đường này về sau khuếch trương và đổi tên là Phật học viện Hải Đức, nơi đào tạo Tăng tài cho cả Trung phần Việt Nam.

Năm Mậu Tuất 1958, Hòa Thượng cùng chư tôn pháp hữu tòng học tại Nha Trang trở về Bình Định khởi xướng chương trình giáo dục đào tạo Tăng tài ngõ hầu góp phần quang huy cho tiền đồ Phật giáo tỉnh nhà, đặc biệt Phật sự trọng đại nầy trong thời kiến sơ được đặt dưới sự chỉ đạo của Ngài Thượng Như hạ An hiệu Huyền Quang về việc chủ trương sáng lập và điều hành cơ sở. Hạnh nguyện hoằng pháp dần được thành tựu, đạo hiệu của Đại Lão Tổ Sư Nguyên Thiều được chính thức công bố sáng lập vào ngày 15/08 năm Mậu Tuất, nhằm ngày 27/09/1958. Sau đó, qua sự tham gia hộ trì của hầu hết chư tôn thiền đức bản tỉnh mà Tu Viện trải qua bao biến đổi thời cuộc vẫn luôn phát triển không ngừng.

Theo tư liệu lưu tàng tại Tu Viện, y cứ trích dẫn Kỷ yếu kỷ niệm đệ thập chu niên khai sáng Tu Viện Nguyên Thiều được tổ chức tại Tu Viện ngày 17 tháng 11 năm Mậu Thân, nhằm ngày 05/01/1969 thì nguyên khởi hình thành và trực tiếp kiến tạo Tu Viện  là do công khai sơn phá thạch của chư vị tôn đức như: Hòa Thượng Thích Bảo An, H.T Thích Đồng Thiện, H.T Thích Đỗng Quán, H.T Thích Bửu Quang, H.T Thích Thiện Độ, H.T Thích Minh Quang, H.T Thích Quang Ngọc, H.T Thích Nguyên Trạch... và giữ vai trò thượng thủ là H.T Thích Huyền Quang. Công tác kiến lập nầy với sự chứng minh hộ niệm của chư tôn thiền đức thuộc Tổng hội Phật giáo Trung phần và công sức đóng góp của mười phương Tăng, Ni, Phật tử.

Năm Kỷ Dậu 1969 Hòa Thượng được chính thức công cử làm đệ nhất trú trì Tu Viện Nguyên Thiều được công bố qua đại hội khoáng đại kỳ I của chư tôn thiền đức toàn tỉnh quy tập tại Tu Viện ngày 17 tháng 08 năm Kỷ Dậu, nhằm ngày 28/ 09/ 1969. Từ đó Hòa Thượng phụng hành hoài bảo lấy công hạnh hoằng pháp lợi sanh làm sự nghiệp, đem hết tâm lực duy trì và khuếch trương cơ sở Tu Viện cho đến ngày viên tịch.

Trong thời gian này Hòa Thượng rất chú trọng đến việc giáo dục học Tăng và ít quan tâm đến việc thế độ đệ tử. Mãi đến cuối đời Ngài mới thâu nhận đồ chúng để có nhân sự duy trì cơ sở Tu Viện. Hiện tại đồ chúng Hòa Thượng thâu nạp lên đến số vài mươi, hiện nay đã trưởng thành và lo Phật sự khắp nơi.

        Vào lúc 13 giờ 15 phút ngày 03 tháng 08 năm Tân Tỵ, nhằm ngày 19/09/2001 là ngày bi thương đáng nhớ nhất cho tất cả môn đồ. Bởi do tuổi cao sức yếu không thể nào trái được luật vô thường, Hòa Thượng đã lâm bệnh chỉ hơn một tuần trăng, mặc dầu phương tiện y khoa đã tận tình can thiệp, nhưng cỗ xe tứ đại đã không còn hoàn hảo và Ngài đã thâu thần an nhiên viên tịch. Thọ thế 80 năm, nối dòng Lâm Tế đời thứ 42, Tăng lạp 58 tuổi.

Nam Mô Lâm Tế Chánh Tôn tứ thập nhị thế Nguyên Thiều Tu Viện Đệ nhất trú trì húy thượng Thị hạ Công tự Đồng Thiện hiệu Trí An Hòa Thượng Giác Linh tác đại chứng minh

Pháp lữ - Môn đồ pháp quyến đồng phụng soạn

 

 

LỜI TỪ BIỆT THẦY

TT Thích Minh Dung

(đọc trong tang lễ HT Thích Đồng Thiện – Tu viện Nguyên Thiều 2001)

 

Kính lạy giác linh Thầy,

Từ hôm hay tin Thầy lâm bịnh và tiếng nói yếu ớt của Thầy qua điện thoại làm con rất lo. Nhiều năm qua con cố gắng về thăm Thầy một lần nhưng ước vọng đơn sơ ấy đã không toại nguyện. Hơn hai mươi năm con xa Thầy, xa Tu viện, xa đồi núi thương yêu thưở nào. Mai này nếu được về thăm thì Thầy đã ra đi biền biệt.

Trong giờ phút linh thiêng u buồn của của núi đồi Tu viện. Giờ phút đưa kim quan Thầy vào chốn an nghỉ sau cùng. Từ nơi xa xôi, con xin vọng về đảnh lễ giác linh Thầy với tất cả lòng biết ơn và nhớ thương của người học trò xa nước.

Thầy kính yêu,

Hôm nay Thầy đã hóa kiếp thành những cụm mây lành bay thong dong trong bầu trời. Nơi Thầy đến Thầy mang bình an cho chỗ đến. Vì Thầy là nước mát của biển khơi. Là lửa ấm của ngày đông. Là đất lành của cây cỏ. Là viên bảo châu trong Phật pháp. Năm mươi năm xây dựng tu viện Thầy đã thể hiện trọn vẹn của một Bồ tát hóa thân. Từ một đồi hoang làm chỗ dung thân cho người du thủ du thực trở thành một tòng lâm tu học danh tiếng. Thầy là một thành viên đoàn Tăng sĩ đầu tiên khai sơn phá thạch để dựng nên tu viện ngày nay. Bao là công, bao là sức, bao là tình mà Thầy đã trải ra trong suốt năm thập niên qua. Năm mươi năm của tu viện với bao thăng trầm theo thăng trầm của đất nước lửa bom. Nhưng Thầy chưa một lần từ bỏ dù trong tạm thời để ra đi lánh nạn. Lúc thịnh, lúc suy, lúc tu viện trong hoang tàn nghiệt ngã, đói khổ lầm than, Thầy vẫn dang tay ra ôm tu viện vào lòng như mẹ ôm con. Thầy ơi, làm sao núi đồi này không ảm đạm được trong giờ phút tiễn Thầy ra đi lần cuối.

Kính lạy giác linh Thầy,

Con là người phước duyên được làm đệ tử Thầy từ thuở còn thơ. Thầy là bậc đạo sư hiếm hoi trong cuộc đời này. Thầy vĩ đại quá. Hồn Thầy sáng như sao băng, vững chãi như dãy trường sơn. Thầy ơi, trong cuộc sống xa quê, xa chùa, mỗi lần con nghĩ tới Thầy con chỉ biết cúi đầu sụp lạy. Thầy đã dạy cho con những bài học lớn trong cuộc đời. Thầy không dạy bằng lời. Thầy không giảng từ kinh. Thầy không lý luận với những kiến thức trong cuộc sống. Thầy dạy bằng tấm lòng từ ái thương Tăng chúng bao la. Từ độ con xa Thầy rồi bỏ nước ra đi, con sống nhiều nơi, học hỏi nhiều chỗ, nhưng con chưa thấy ai thương Tăng chúng như Thầy. Thầy dạy chúng con bài học cống hiến trọn vẹn sự sống này cho Đạo pháp bằng chính sự sống và chết của Thầy. Con nhớ một lần Thầy đau nặng năm 1977, Thầy gọi chúng Tăng lại căn dặn. Thầy bảo nếu Thầy không qua khỏi cơn bịnh này thì đừng báo cho ai biết, chôn Thầy dưới một gốc cây nào đó vào ngày hôm sau. Đừng làm tháp miếu, chỉ lấy vài miếng ván thô sơ đóng hòm mà thôi. Thầy bảo Thầy chưa đóng góp được gì cho Đạo và đừng để tu viện phải khổ nhọc trong tang lễ của Thầy. Thầy sống vô cùng đơn giản trong khi sống và chẳng muốn gì rườm rà cả khi ra đi. Bao giờ chúng con mới hiểu thấu những bài học vĩ đại này của bậc Thầy kính trọng của chúng con.

Thầy ơi,

Con gọi về chùa mình hằng tuần trong bao năm qua, nhưng ít khi nào con dám tiếp chuyện với Thầy. Vì mỗi lần nói chuyện với Thầy là giọng Thầy nghẹn ngào trong điện thoại. Thầy thường hỏi con: "…Bên Mỹ, chùa Quang Thiện chỉ có mình con, không thầy, không bạn, rồi ai giúp đỡ khi con bị bịnh. Con đường hoằng pháp và cuộc sống tu hành ở xứ người có nhiều khó khổ không con…" Con luôn nói điều lạc quan để Thầy được an tâm, duy chỉ có điều nơi đây, con thiếu Thầy, thiếu huynh đệ thôi. Rồi giọng Thầy lịm đi trong điện thoại viễn liên cho đến khi Thầy cúp máy. Hôm nào hầu chuyện với Thầy qua điện thoại thì đêm ấy biến thành đêm dài xa xứ của con. Vì xa quê mới thấy quê mình đẹp nhất. Sống xa Thầy, con thấy được ý nghĩa sư - đệ tình thâm. Sống lẻ loi, con thấm thía sức mạnh hợp quần của Tăng chúng một tòng lâm. Rồi hôm nay con thêm nỗi u buồn của người đệ tử mất Thầy.

Kính lạy giác linh Thầy,

Chúng con buồn vì mất Thầy nhưng chúng con không lùi bước. Chúng con biến nước mắt thành nước mát để thêm lực cho cỏ cây tu viện Nguyên Thiều. Chúng con tiếp nối ước vọng của Thầy trong việc đào tạo Tăng ni sinh. Chúng con nguyện học thấy để thấy Thầy có mặt trong từng viên sỏi vụn của núi đồi tu viện. Trong ánh mắt mang đầy lời nguyền của Tăng sinh. Trong sự sống vì giáo pháp và hy sinh cho giáo pháp. Chúng con nguyện học Nghe, nghe tiếng Thầy xót xa trước sự khổ của muôn sinh. Nghe niềm đau của Thầy trước sự đói rách của con người. Nghe tiếng thở dài của Thầy trong sự điêu linh của Đạo pháp. Chúng con nguyện học Sống, sống theo Thầy trong bình dị và đơn sơ. Vui trong niềm vui lo cho Tăng chúng. Buồn theo nỗi buồn Tăng chúng lầm than, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thiếu Thầy dạy dỗ. Ngày di quan hôm nay của Thầy vào đất, đất Tu viện này sẽ thành linh địa cho ngàn sau. Chúng con đang gục đầu vào đất nghe thông điệp "hy vọng vào ngày mai" của Thầy.

Thầy ơi,

Nếu năm 2001 có những đêm buồn và dài trong năm, thì đêm nay là đêm dài và buồn nhất của con. Con đến hàng giờ nơi bàn thờ của Thầy trong đêm khuya để dâng trầm thì giờ phút này ở quê nhà là ngày đưa áo quan Thầy vào nơi an nghỉ. Giờ phút thiên thu từ biệt này, con chẳng có gì để dâng lên cúng dường Thầy ngoài mấy lời thơ như lời từ biệt của con từ bên nay bán cầu:

Từ thuở xa thầy

Vào Nam rồi tìm đường vượt biển

Đời con như những đợt sóng của chiều đông

Có những lúc đêm dài sao dài quá

Nhìn đôi tay gầy guộc mỏi mòn trông

Hai mươi năm trôi nổi vạn lần

Phố thị ấy mỗi ngày đi, sao vẫn còn bỡ ngỡ

Tóc dần bạc theo tuổi đời trăn trở

Tìm quê hương trong giấc mộng đêm dài

Trong độc thoại mới biết mình khờ khạo

Bỏ mùa xuân ôm lấy trọn mùa đông

Đêm nay xin chút lửa hồng

Xin ơn đức ấy phủ lòng xa xôi

Chân bước nhẹ nơi phương trời xứ lạ

Mà vẫn đau vì đau quá bao lần

Khi đau đớn con cúi đầu sụp lạy

Lạy ơn Thầy cứu độ cho hồn con.

Nhất tâm đảnh lễ Nguyên Thiều Đường thượng từ Lâm tế chánh tông tứ thập nhị tuế, đệ nhất Trụ trì thượng Đồng hạ Thiện Đại Lão Hòa Thượng Bổn sư tam bái

 

 
 
simple stats
lượt đọc kể từ Mùa Phật Đản 2552 - 2008