Từ Bi & Tinh Thần
Bất Bạo Động
Theo Truyền Thống
Phật Giáo Đại Thừa
Thích Trí Giải

Từ xưa đến nay,
thế giới liên tục xảy ra bạo động chiến tranh,
khủng bố, kỳ thị chủng tộc, bạo động giữa các
tôn giáo, thì vấn đề kiến tạo nền hòa bình cho
thế giới rất quan trọng. Nhưng vẫn chưa tìm ra
một phương pháp thỏa đáng, trừ phi những quốc
gia trên toàn cầu, cần phải thay đổi đường lối
chính trị, văn hóa áp dụng tinh thần bất bạo
động vào đời sống xã hội.
Tất cả tôn giáo
đều có những quan điểm định hướng cho lý tưởng
khác nhau, mục đích đều hướng dẫn đạo đức con
người hoàn thiện và xây dựng xã hội tốt đẹp, yêu
cầu tất yếu mỗi tôn giáo cần phải phá vỡ sự mâu
thuẫn, xung đột xảy ra cùng nhau định hướng
chung mục đích quan tâm đến hòa bình.
Đạo Phật
được xem là tôn giáo bất bạo động đóng góp rất
nhiều cho nền hòa bình thế giới, đặc biệt là
Phật giáo Đại thừa.
Phật giáo Đại
thừa phát triển và ảnh hưởng rộng rãi vào những
quốc gia Châu Á như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Việt Nam…trong suốt hàng ngàn năm qua,
dùng lý tưởng từ bi và trí tuệ, thiết lập hệ
thống giá trị đạo đức nhân bản cho con người,
tránh xa những bạo động, đặc biệt truyền thống
ăn chay.
Phật giáo Đại
thừa luôn nhấn mạnh, phổ biến lòng từ bi đối với
chúng sinh được thể hiện trong giới luật (vinaya)
Giới xuất gia: Tỳ
kheo 250 giới [1] , Tỳ kheo ni 341 giới [2] , Sa
di, Sa di ni 10 giới [3] .
Giới tại gia: Ưu
bà tắc, Ưu bà di: 5 giới [4] , Thập thiện giới
[5]
Giới thứ nhất cấm
sát sinh trong các loại giới, và giới thứ ba
trong Tỳ kheo và Tỳ kheo ni giới. Và Đại thừa Bồ
tát giới trong Kinh phạm võng gồm;
10 giới trọng,
[6]
và 48 giới khinh
[7]
Mục đích Phật chế
giới là để ngăn chặn trực tiếp vấn đề giết hại
sinh mạng, còn những giới khác để ngăn ngừa các
điều ác từ thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp
không cho phát sinh. Nếu Tỳ kheo hoặc Tỳ kheo ni
vi phạm Ba-la-di (pārājikā) trục xuất khỏi Tăng
đoàn, nếu phạm Ba-dật-đề thì được sám hối.
Trong 10 giới
trọng của Bồ tát giới gồm có; giới sát sinh,
giới trộm cướp, giới dâm dục, giới vọng ngữ,
giới bán rượu giới nói lỗi tứ chúng, giới khen
mình chê người, giới xan tham, giới cố giận hờn,
giới phỉ báng Tam bảo, được phân chia theo ba
nghiệp như sau:
Thân nghiệp: giới
sát sinh, giới trộm cướp, giới dâm dục và giới
bán rượu
Khẩu nghiệp: giới
vọng ngữ, giới nói lỗi tứ chúng, giới khen mình
chê người,
Giới phỉ báng Tam
bảo
Ý nghiệp: giới
xan tham, giới cố giận hờn
Chia theo loại
phiền não:
Tham: giới trộm
cướp, giới dâm dục, giới xan tham
Sân: giới sát
sinh, giới nói lỗi tứ chúng, giới giận hờn
Si: giới phỉ báng
Tam bảo, giới bán rượu và giới vọng ngữ [8]
Giới không sát
sinh [9] rất quan trọng trong tất cả truyền
thống Phật giáo, mục đích ngăn chặn trực tiếp
vấn đề giết hại sinh mạng và khuyến hóa mọi
người tránh xa bạo động chiến tranh gây đau khổ
cho nhân loại. Chẳng những đức Phật cấm không
được sát bất kỳ hình thức nào, Bồ-tát còn phải
vâng giữ các khinh giới, như không cất chứa vũ
khí, không buôn bán những khí cụ sát sanh, hay
các loại vũ khí giết người, cho đến không đi sứ
làm môi giới khiến cho chiến tranh giữa các quốc
gia nổ ra. [10]
Những giới khinh
nhằm ngăn ngừa những bất thiện pháp khỏi phát
sinh, ngăn ngừa không cho phạm trọng tội
Ba-la-di, theo quan điểm của Phật giáo thì những
tội ác xuất phát từ ba độc tố trong tâm thức mỗi
người, đó là tham, sân và si. Vì thế Phật giáo
Đại thừa luôn nhấn mạnh thực hành lý tưởng từ bi
và trí tuệ của Bồ-tát để chuyển hóa tâm thức, từ
bi hóa giải tâm sân hận, trí tuệ tiêu diệt tâm
tham và si.[11]
Lòng từ bi của
Bồ-tát là linh dược để chuyển hóa khổ đau của
tha nhân, tinh thần bất bạo động của Phật giáo
dựa trên nguyên tắc hoạt động đạo đức của con
người về hành vi tốt xấu, đúng và sai. Giới luật
là quy tắc đạo đức cho Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, vì
thế khái niệm bất bạo động và từ bi trong Phật
giáo được sánh với giới luật của các trường phái
khác nhau của Phật giáo, đặc biệt là Bồ-tát-giới.
[12]
Phật giáo Đại
thừa toàn bộ với các giáo lý dựa vào lòng từ bi
là yêu cầu đầu tiên, vì lòng từ bi ngăn chặn
hoặc kiêng cữ hoàn toàn vấn đề giết hại chúng
sinh
Người Phật tử
giết hại sinh vật vi phạm nguyên tắc đạo đức,
tinh thần bất bạo động (ahiṃsā)
và làm trái ngược lời Phật dạy.
Vì để tránh giết
hại sinh vật, những người Phật tử theo truyền
thống Đại thừa thực hành theo văn hóa ăn chay
được ảnh hưởng rộng rãi vào những đất nước Phật
giáo Đại thừa ở Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam,
được nhiều người hưởng ứng thực hành theo Kinh
điển và giới luật của Đại thừa, vấn đề này được
diễn tả trong kinh Thủ-lăng-nghiêm (首楞嚴經) nói rằng; “nếu tâm tham không tiêu diệt, thì chúng sinh sinh ra từ
thai sinh, noãn sinh, và thấp sinh sẽ chuyển đổi
nhau sử dụng sức mạnh giết hại nhau để làm thức
ăn, điều này xuất phát chủ yếu từ tâm tham của
mình giết hại sinh mạng. Vì vậy, nếu có một
người nào giết một con cừu hay một con vật khác
để ăn thịt, thì con cừu ấy sẽ tái sinh lại làm
con người, và con người ấy sau khi chết tái sinh
lại làm con cừu để trả nợ cũ của mình” [13]
Tất cả giáo lý
của đức Phật hoàn toàn thực tế rất quan trọng
đối với nhân loại rằng: Con người trên trái đất
không có tội lỗi nào lớn hơn giết hại sinh mạng,
và cũng không có nguồn tích lũy công đức nào hơn
đó là bảo vệ mạng sống của chúng sinh. Chúng ta
cố gắng giải cứu mạng sống của chúng sinh đang
gặp hoàn cảnh nguy hiểm là chúng ta tiến xa một
bước đang thực hành từ bi, cứu vớt sự khổ đau
của chúng sinh là tâm hạnh lợi tha của Bồ-tát
[14]
Vì lòng từ bi
nghĩa là chia sẻ khổ đau cùng với tha nhân và
bản chất của từ bi là để quán sát sự đau khổ của
tất cả chúng sinh.
Theo truyền thống
Phật giáo Đại thừa luôn đề cao lý tưởng Bồ tát
thực hành sáu pháp Ba-la-mật (bố thí, trì giới,
tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định và trí tuệ) để
bước vào quả vị Phật. Trong Kinh điển Bát-nhã,
thì trí tuệ (Bát nhã ba la mật) được xem là nhân
tố quan trọng nhất, nó bao trùm với năm pháp
ba-la-mật còn lại.
Nếu hành giả tu
hành thiếu trí tuệ thì không hoàn thành quả vị
Phật, khác nào như người mù đang đi về một
phương trời vô định, sẽ gặp rất nhiều chướng
ngại, chông gai và không về đến đích
Do đó Bồ tát
Shāntideva nói rằng; “sự yếu đuối của một vị
Bồ-tát rất tai hại vì một khi phạm lỗi, Bồ-tát
sẽ làm liên lụy đến sự giải thoát của vô lượng
chúng sinh”
Ngoài Lục độ và
Tứ vô lượng tâm, Bồ-tát còn hành trì Tứ nhiếp
pháp để nhiếp hóa mọi người, Tứ nhiếp pháp bao
gồm:
Bố thí (Dāna) là
sự cứu giúp chúng sinh trên phương tiện vật chất
cũng như tinh thần, không có nhu cầu tư lợi, bố
thí vật chất giúp con người thoát khỏi trong lúc
đói khổ trong đời này. Bố thí pháp là cứu giúp
chúng sinh đời sống tinh thần tu hành giải thoát
sinh tử
Ái ngữ (piyavācā)
là lời nói chân thật, hòa nhã mang lại lợi ích
cho mọi người tránh gây xung đột, thù hận
Lợi hành (atthacariyā)
vì lòng từ bi làm lợi ích cho mọi người, và xây
dựng xã hội chân thiện mỹ
Đồng sự (samānattatā)
là hòa đồng vào mọi người và mọi hoàn cảnh để
cứu độ chúng sinh thoát khổ đau
Bồ-tát dùng trí
tuệ nhìn thấu khắp nỗi khổ chúng sinh, Bồ-tát vì
lòng từ bi cao thượng vận dụng hết mọi khả năng
của mình để cứu độ chúng sinh thoát khỏi khổ đau,
Đại thừa gọi là vô công dụng hạnh (anābhoga)
chính vì từ bi và trí tuệ giúp Bồ tát đạt đến
tâm vô phân biệt.
Như DT. Suzuki
trích dẫn tác phẩm; “Bồ đề tâm” của ngài Long-Thọ
(Nāgārjuna): “tính chất thiếu yếu của Bồ tát là
tâm đại từ bi (Mahākaruṇācitta)
và tất cả chúng sinh là đối tượng tình thương
yêu của Bồ tát.” [15]
Vì vậy trong luận
Du già sư địa nói rằng; nếu các hành giả Bồ-tát
nuôi lớn những hạt giống phẫn nộ, sân hận, do đó
nhân duyên phát khởi ra miệng nói những lời thô
tục, do sự phẫn nộ ấy tay cầm đao, trượng, gây
hại, hoặc làm phiền não đến chúng sinh thì hành
giả Bồ-tát đó, trong tâm hủy hoại công đức tu
hành. [16]
Trong Thập địa
kinh luận một tác phẩm rất quan trọng trong Phật
giáo Đại thừa nói rằng; một vị Bồ tát không được
sử dụng vũ khí bất kỳ hình thức nào, không hận
thù và không được giết hại sinh vật, thậm chí
ngay trong tư tưởng, tinh thần bất bạo động (ahiṃsā)
là một phẩm hạnh cao quý nhất của Bồ-tát nhằm
kiêng cữ gây tổn hại đến chúng sinh. [17]
Bất bạo động là
sức mạnh của tinh thần, tâm lý học nói tinh thần
bất bạo động có thể diễn tả trong tinh thần của
từ bi, mọi người thực hành ahiṃsā
thì hầu hết là những người yêu quý cuộc sống của
mình và không muốn gây tổn thương hay giết hại
đến người khác, sự cảm nhận của tình thương yêu
được truyền từ trong tư tưởng của người khác. Vì
vậy, lòng từ bi là để bảo vệ sự sống đã được
nhiều người ủng hộ và thực hành
Có vài trường hợp
ngoại lệ giết người vì lòng từ bi, như trong
Kinh phương tiện thiện xảo có ghi lại rằng: tiền
thân của đức Phật khi còn là một vị Bồ-tát đã
giết tên cướp cứu 500 vị thương gia [18]
Trong trường hợp
này chúng ta phân tích nhiều khía cạnh:
Nếu vị Bồ-tát đó
báo tin cho những người thương buôn biết có cướp,
thì chắc chắn những người thương buôn sẽ bạo
động giết hại tên cướp để bảo vệ mạng sống của
mình, thì những người thương buôn này kiếp sau
phải trả quả báo vào địa ngục về tội giết người.
Nếu vị Bồ-tát giữ
im lặng thì tên cướp sẽ giết 500 thương buôn,
thì ác nghiệp càng sâu nặng, sau khi chết tên
cướp phải trả quả báo sẽ rơi vào địa ngục.
Bồ-tát nghĩ rằng
trong khi tên cướp chưa giết người tạo ác nghiệp,
giết hắn thì sẽ hóa giải nghiệp báo ân oán nhân
quả giữa tên cướp và 500 người thương buôn, đồng
thời cũng giúp tên cướp và 500 người thương buôn
không mang tội sát sinh, không rơi vào Địa ngục.
Trong trường hợp
này là theo lý tưởng đại từ bi của Bồ-tát trong
ý nghĩa phương tiện thiện xảo giết một người cứu
500 người. Bồ-tát tự mình gánh chịu hậu quả vi
phạm giới sát. Nhưng động cơ giết hại không phải
hận thù, lòng tham, tư lợi mà xuất phát từ động
cơ tích cực, từ trái tim từ bi vị tha, lân mẫn
luôn nghĩ đến nỗi khổ của chúng sinh, Bồ-tát
phải gánh chịu nỗi khổ của tha nhân về cho mình
Từ bi trong Phật
giáo Đại thừa luôn gắn liền với trí tuệ, Bồ tát
luôn phát triển trí tuệ (Bát nhã ba-la-mật) để
đảm bảo cho hành động từ bi thích hợp và hiệu
quả, không ngấm ngầm tư lợi, và trí tuệ ấy được
xây dựng dựa trên lý tưởng của Tánh không (Śūnyatā).
“Trời không cánh
nhạn bay qua
Bóng in đáy nước
xóa nhòa một khi
Nhạn không để dấu
làm chi
Nước không giữ
bóng bởi vì vô tâm”
(Thiền sư: Hương
Hải)
Như trong tác
phẩm Bodhi-caryāvatāra của ngài Śāntideva “nhận
thấy rằng tất cả chúng sinh đều bình đẳng trong
sự mong cầu hạnh phúc và tránh xa đau khổ, vì
vậy bảo vệ người khác cũng như bảo vệ cho chính
mình” [18]
Trí tuệ siêu việt
của Bồ-tát luôn nhận thức rằng trong thế gian,
con người sở dĩ khổ đau là do họ lấy huyễn làm
chơn, lấy giả làm thật, nguồn gốc của khổ đau là
do tham ái, vô minh. Vì thế hành giả thực hành
tinh thần Bồ-tát đạo cần phải thực tập thiền
định để tuệ giác hiển bày dứt trừ phiền não
chướng, mây tan mặt trăng hiển hiện. Bồ-tát luôn
dùng trí tuệ bát nhã soi đời mình nhìn thấy các
pháp vốn vô thường, khổ, không, vô ngã.., và
dùng từ bi để hóa giải mọi thù hận
Vì thế trong Kinh
điển Đại thừa và tất cả tư tưởng của Phật giáo
dựa trên từ bi, những lời Phật dạy có thể hiện
qua hai câu nói: “bạn phải giúp đỡ người khác” (toàn
bộ giáo lý Đại thừa). “Nếu không thực hiện được,
bạn không nên gây tổn hại đến người khác” (toàn
bộ giáo lý Hīnayāna or Theravāda)
Giáo lý của hai
truyền thống đều dựa trên lý tưởng từ bi, một
người Phật tử nếu bạn không đủ khả năng giúp đỡ
người khác, ít ra bạn không nên gây tổn hại đến
người khác [19]
Bồ tát luôn an
trú chánh niệm thanh tịnh trong từng bước chân
nhập thế cứu độ chúng sinh, chỉ lấy trí tuệ làm
sự nghiệp. Trong kinh Bát-Đại-Nhân-Giác nói về
sự nghiệp của Bồ-tát: “luôn luôn biết đủ, sống
thanh bần để giữ đạo, chỉ lấy trí tuệ làm sự
nghiệp” [20]
Trí tuệ như là
một kim chỉ nam cho hành giả luôn nhận thức rằng
dục vọng con người không bao giờ biết đủ và dừng
lại, “lòng tham vô đáy” vì lòng tham dục vọng
này con người gây nên bao tội ác, giết người
cướp của, tà dâm,…Chính vì dục vọng của tâm tham
này dẫn đến bạo động trong cuộc sống làm mất đi
tính cân bằng xã hội, và nền hòa bình thế giới.
Chúng sinh càng gây tội ác thì trái tim từ bi
của Bồ-tát càng đau quằn quại vì lòng thương xót.
Tình thương của
Bồ-tát đối với chúng sinh không giống như những
thứ tình cảm bình thường ở xác thịt, bởi vì tâm
từ bi của Bồ tát luôn mang tính vị tha, vô vị kỷ
và xả ly (từ, bi, hỷ, xả) trong Phật giáo Đại
thừa ngài Quan Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteśvara (觀
世
音
菩
薩)
được biểu trưng cho bản thể tâm từ bi, ngài
Văn-thù-sư-lợi (zh.
文殊師利,
sa. Mañjuśrī) biểu trưng cho trí tuệ bát nhã,
đại trí và đại bi la tổng thể của lý tưởng Đại
thừa, để Bồ-tát vào đời độ sinh
Bồ-tát vì lòng từ
bi vô biên không hướng đến Phật đạo, các Ngài
không muốn thành tựu cứu cánh lý tưởng của riêng
mình, Bồ-tát phát nguyện tinh thần nhập thế chăm
lo niềm hạnh phúc an lạc cho chúng sinh như Địa
Tạng Bồ Tát “Địa ngục vị không thệ bất thành
Phật, chúng sinh độ tận, phương chứng Bồ-đề” có
nghĩa là “Địa ngục chưa trống không, tôi thề
không thành Phật; chúng sanh độ hết rồi, tôi mới
chứng Bồ-đề”. Khi đức Phật hỏi ngài Địa Tạng đã
bạch Phật rằng: “Con ở trong cõi đời xấu ác này
độ sanh, nhưng vẫn cảm thấy an lạc như đang an
trú trong cảnh giới Niết Bàn.”
Tinh thần nhập
thế của Bồ tát đạo nhằm hóa độ thế gian theo
khuynh hướng chí thiện, con người biết tránh xa
nghiệp bất thiện, lòng ích kỷ, cái nhìn phiến
diện. Một thi hào người Anh đã viết ra những
dòng thơ rất đẹp đẽ và thâm thúy có nhiều ý
nghĩa:
“Tôi nhìn anh tôi
qua kính hiển vi của sự “chỉ trích”
và tôi nói. "Anh
tôi quả thật thô lỗ!"
Nhìn anh tôi qua
kính viễn vọng của sự “khinh bỉ”
và tôi nói. "Anh
tôi quả thật bé nhỏ thấp hèn"
Rồi tôi nhìn vào
"tấm gương chân lý"
Và tôi nói, "Anh
tôi thật giống hệt như tôi."
“Trong con người
tốt nhất cũng có những khuyết điểm, mà trong con
người xấu nhất cũng có những điểm tốt. Tại sao
ta chỉ nhìn phần xấu xa tội lỗi mà không để ý
đến phần tốt của người? Nếu mỗi người đều nhìn
vào phần tốt đẹp của nhau, nhân loại đã tìm được
nguồn hạnh phúc dồi dào” [21]
Con người biết
thay từng giọt máu hận thù trong tim bằng giọt
máu từ bi để rồi từ đó con người biết yêu thương,
gắn bó, biết xan xẻ cho nhau những nỗi niềm vui,
khổ…
HT Thích Nhất
Hạnh nói rằng: “tính chất từ bi như là một là
một trang web, khi chúng ta phát triển các khía
cạnh liên quan đến Bồ Đề tâm, hành động từ bi
khi chúng ta thực hành tham gia tích cực với khổ
đau trên toàn thế giới, đáp ứng những như cầu
cho chúng sinh trong bất cứ hoàn cảnh nào chúng
ta có khả năng.”[22]
Mỗi người tự nhận
thức biết sống hạnh phúc an lạc cho chính bản
thân mình, không còn thù hận chém giết lẫn nhau,
tạo nghiệp ác, tức là đã biết xây dựng sự tồn
tại giá trị nhân bản đạo đức con người chuẩn mực
cho nhân loại.
“Tự tại tiêu dao
suốt tháng ngày
Tùy duyên phóng
khoáng cõi trần ai
Rửa sạch lòng
trần đầy ô uế
Cuộc đời chi sá
bận tâm đâu”
Trong lịch sử của
đại đế Asoka (vua A-Dục) vào thế kỷ thứ III tr
CN. [23] Sau những cuộc chinh phạt đẫm máu của
mình, đại đế Asoka cảm thấy kinh hoàng và hối
hận, chính giáo lý của đức Phật đã chuyển hóa
cuộc đời của vua Asoka với những chiến thắng
quân sự, vũ khí thay bằng chiến thắng đạo đức
tâm linh. Sau đó vua Asoka thực hiện tinh thần
bất bạo động thực hành theo năm giới, dưới sự
cai trị của đức vua Asoka hoàn toàn đã thay đổi
chính sách cai trị điềm đạm ôn hòa, từ bỏ lối
tra tấn, không bạo lực, dân chúng được che chở
mà ngay cả thú vật cũng được bảo vệ, Asoka ra
lệnh cấm săn bắn, nhà vua còn kiêng cữ ăn thịt
khuyến khích dân chúng ăn chay, ngoài ra nhà vua
còn làm nhiều việc phúc lợi cho xã hội cất nhà
cho người lữ hành nghỉ chân, xây dựng bệnh viện,
các khu an dưỡng, cấp thuốc trị điều dưỡng cho
những tù nhân.[24]
Với xu hướng hiện
nay các nhà chính trị gia họ luôn có cái nhìn
tiêu cực, chính trị là phải dùng thủ đoạn mưu mô,
dùng vũ khi chiến tranh làm mục tiêu cho hòa
bình. Vì vậy họ trang bị những vũ khí hạt nhân,
và những vũ khí tối tân làm phương tiện chiến
tranh cho rằng bảo vệ hòa bình. Nhưng thực tế
chiến tranh xảy ra bom đạn sẽ gây chết chóc,
khủng hoảng tinh thần, bệnh tật,…cho nhân loại.
Vì vậy vấn đề hòa
bình thế giới trở thành một mối quan tâm của bao
tâm hồn nhân ái, mỗi ngày luôn cầu nguyện hòa
bình, chiến tranh đừng xảy ra. Thực trạng hiện
nay nhiều cường quốc tranh đấu cho hòa bình bằng
cách bỏ ra hàng tỷ USD để trang bị vũ khí tối
tân nhằm bảo vệ đất nước, trong khi đó hơn một
nửa dân số thế giới lâm vào cảnh nghèo nàn đói
khổ. Chính vì sự phân hóa sự giàu nghèo, trong
cơ chế kinh tế, là mầm mống tạo ra bạo động xã
hội, chiến tranh..
Vì thế các nhà
lãnh đạo hòa bình luôn kêu gọi các quốc gia hãy
giải quyết tranh chấp bằng phương pháp ngoại
giao, thương lượng với nhau tạo mối quan hệ tốt
đẹp cho hai bên, tránh xa xung đột chiến tranh
vũ trang. Tinh thần bất bạo động ấy được đề cập
trong những lời Phật đã khởi xướng: “chiến thắng
sinh thù hận, thất bại chuốc khổ đau.” Hoặc
trong Kinh pháp cú đức Phật dạy:
"Tự thắng tốt đẹp
hơn
Hơn chiến thắng
người khác.
Người khéo điều
phục mình,
Thường sống tự
chế ngự".
"Dầu tại bãi
chiến trường,
Thắng ngàn ngàn
quân địch
Tự thắng mình tốt
hơn
Thật chiến thắng
tối thượng".
(Pháp cú 104-103)
Nếu một nhà chính
trị thực hành theo lời đức Phật đã dạy thiết lập
một xã hội hùng mạnh, hưng thịnh, không có chiến
tranh bạo động, , theo bảy nguyên tắc sau:
(1) Sinh hoạt dân
chủ,
(2) Tình đoàn kết
dân tộc,
(3) Nguyên tắc
pháp trị,
(4) Sự hòa hợp
các thế hệ,
(5) Tôn trọng phụ
nữ,
(6) Tôn kính các
tín ngưỡng,
(7) Ưu đãi các
bậc minh triết. [25]
Theo Đức Đạt Lai
Lạt Ma cho rằng; “với tâm niệm tốt, thành thật
thì chính trị có thể thành công cụ tốt phục vụ
cho xã hội, khi bị thúc đẩy bởi lòng ích kỷ, bởi
hận thù, giận dữ và ghen ghét thì chính trị sẽ
trở thành sơ bẩn” [26]
Ngài Long Thọ
(Nāgārjuna) đã vạch ra đường hướng cai trị đất
nước dựa trên bốn nguyên tắc sau:
Việc chuyển hóa
tâm thức và đổi mới xã hội không thể tách rời
nhau
Vai trò tối hậu
của cá nhân trong hành trình giác ngộ là điểm
then chốt của đạo đức chính trị
Việc truyền bá
chánh pháp tạo cơ hội mọi người tu học thành tựu
giác ngộ là yêu cầu quan trọng của nhà lãnh đạo
Nhà lãnh đạo phải
tìm mọi cách để thỏa mãn những nhu cầu kinh tế
của mọi người để họ có thời giờ tu học và hành
trì chánh pháp, Ngài còn vạch ra một chương
trình cụ thể và chi tiết về an sinh, kinh tế xã
hội y tế và giáo dục rất nhân bản và tiến bộ
[27]
Ngoài ra ngài
Long Thọ còn đề ra 10 phẩm chất đạo đức tốt đẹp
cho vị Vua để cai trị đất nước: Vua phải thực
hành tinh thần bất bạo động, cấm giết hại sinh
mạng (ahiṃsā),
cấm trộm cướp, cấm tà dâm, kiểm sóat lời nói của
mình, tránh vu khống, triệt để từ bỏ lòng tham,
sân, và tránh giải trí những thứ sai trái, kiêng
cữ say rượu,… dẫn đến một vị vua chân chính,
Ngài khuyến khích vua thực hành những phẩm chất
đạo đức ở trên thì vua sẽ được niềm tin đối của
thần dân, còn nếu đi ngược lại những quy tắc ấy
làm mất niềm tin của thần, dân,.[28]
Trong thế kỷ 21
HT Thích Nhất Hạnh được thế giới xem như một nhà
lãnh đạo tinh thần bất bạo động, Ngài luôn kêu
gọi, khuyến khích mọi người tham gia vào các
hoạt động hòa bình, bằng cách, chuẩn bị trước
phát triển nhận thức và giữ chánh niệm để thực
hành cho hòa bình trong mọi ứng xử một cách bình
tĩnh, thông minh trong mọi phương pháp bất bạo
động, trong đó thực hành bất bạo động là điều
kiện tiên quyết đối với những người làm công
việc xây dựng hòa bình và giáo dục. [29]
Thiền sư Nhất
Hạnh được thế giới vinh danh là người vận động
cho những giải pháp hoà bình trong chiến tranh
Việt Nam và sau biến cố 11/9/2001 đã thỉnh cầu
Hoa Kỳ dùng ngoại giao thay vũ khí ở Afghanistan
và Iraq
Khi nào con người
trên trái đất này biết nhận thức tinh thần vị
tha, biết tôn trọng sự sống, và tin lời Phật dạy
trong mỗi chúng sinh đều có Phật tánh, có khả
năng thành Phật, hình ảnh Bồ tát Thường Bất
Khinh trong Kinh pháp hoa luôn nhắc nhở chúng ta
biết tôn trọng người khác, Mọi người bình đẳng
nhau trong dòng máu đỏ, nước mắt cùng mặn, ai
cũng ham sống sợ chết, chà đạp lên sinh mạng của
kẻ khác đó là sai nguyên tắc đạo đức làm người.
“Giết hại mạng
sống của chúng sinh là hành động đáng hổ thẹn và
sai lầm bởi vì nó làm tổn hại lòng từ bi, cho
nên khi nào chúng ta thực hành tinh thần bất bạo
động mới cảm nhận được tình thương và đạt được
hạnh phúc miên viễn. Bởi vậy, “bất kỳ nơi nào có
từ bi trong trái tim thì nó sẽ biểu hiện ra
ngoài tinh thần bất bạo động.” [30]
Đức Phật là bậc
Tuệ giác chỉ rõ chúng ta thấy rằng chính ba độc
tố: tham, sân, si là nguồn gốc của tội ác, và
nguyên nhân bạo động, tạo nên khổ đau cũng đều
xuất phát từ ba độc tố này [31].
Chính vì vậy đạo
Phật luôn lấy trí tuệ làm sự nghiệp, như là dùng
một thanh gươm thật bén để tiêu diệt kẻ thù “vô
minh.” Hàng phàm phu bị vô minh che lấp ánh sáng
trí tuệ, tâm lý bệnh hoạn, yếu đuối, họ cứ mải
mê chạy theo tiếng gọi của tâm thức của trần tục
tìm cầu dục lạc thân xác, quên đi vấn đề sinh tử
đại sự. Bồ tát Shantideva nói rằng: “…để có thỏa
mãn nhục dục, có người tham của tự bán mình để
cầu dục lạc nhưng không bao giờ ý thức vì phải
luôn hầu hạ kẻ khác, có người vì mưu sống xung
vào quân trận bất chấp tánh mạng hiểm nguy, Họ
muốn vinh quang nhưng lại chịu cảnh tù đày,
những kẻ nô lệ cho ái dục thường lâm vào cảnh
khốn cùng, nếu được thỏa mãn thì cũng không hơn
gì con trâu kéo cày được thưởng vài cộng cỏ”
[32]
Nhưng để có được
trí tuệ diệt trừ vô minh, Bồ-tát đã gieo trồng
hạt giống Bồ đề tâm vào mảnh đất chân thể, nhờ
vào chất liệu từ bi, và hạnh nguyện thì hạt
giống ấy sẽ nẩy mầm, đâm chồi và sẽ sinh ra hoa
trái trí tuệ.
Tóm lại, Phật
giáo truyền bá vào mỗi quốc gia bằng một thái độ
ôn hòa, bất bạo động với tinh thần từ bi, trí
tuệ, trong suốt hơn 25 thế kỷ qua, Phật giáo
chưa bao giờ mở ra cuộc thánh chiến, chưa bao
giờ có giọt máu đổ xuống để vun bồi cho sự hưng
thịnh của Phật giáo. Phật giáo chỉ mở ra cho
chúng sinh con đường hướng thiện, giúp cho con
người sống đúng theo quy tắc đạo đức làm người,
và xây dựng xã hội văn minh lành mạnh đóng góp
cho vấn đề hòa bình thế giới.
Vì vậy Tiến
sĩ K. N. Jayatilleke nói rằng: "Chính nhờ lòng
từ bi mà Phật giáo đã được truyền bá khắp một
vùng rộng lớn ở Châu Á một cách êm đẹp, không
bao giờ có sự can thiệp của vũ lực hay uy thế
chính trị, không một giọt máu nào phải đổ trong
khi truyền giáo; không một cuộc chém giết nào
xảy ra nhân danh Đạo Phật, hay nhân danh Đức Thế
Tôn, thật là hãnh diện biết bao!"
T. Trí Giải
----------------------------------------------
Chú thích:
[1] xem
律比丘戒,T22n1429,
p.1015a19.
[2] xem
四分比丘尼戒本
T22n1431,p.1031a03.
[3] xem
沙彌十戒,T24n1471,
p. 926b08. Và
沙彌尼戒,T24n1474,
p. 937a13.
[4] xem
佛説優婆塞五戒相經,T24n1476,
p. 939c15. & xem D. Keown, Buddhist Ethics A
Very Short Introduction, Oxford University Press
2005 p. 9.
Xem: B.
Lokhande, “Unique Contribution of Buddhism to
The World Culture” K. Sankarnarayan (ed)
Contribution of Buddhism to world Culture,
Somaiya Publishcation 2004 Vol.I. pp. 154-155.
[5] Xem
Thập thiện giới kinh
十善戒經
T24n1486 trang 1023a15.
[6] Phạm
võng kinh:
梵網經
T24n1484 trang1004b11:
[7] Tiếp
theo T24n1484 trang.1006a01:
[8]
HT:Thánh Nghiêm, Cương Yếu Giới Luật, TN Tuệ
Đăng dịch Nhà xuất bản Thời Đại 2010 Thiên thứ
bảy: Bồ Tát Giới Cương Yếu, Chương III
Giới trọng và Giới Khinh của Bồ Tát Giới
[9]佛言。佛子。若自殺教人殺方便讃歎殺,見作隨喜。乃至呪殺。殺因殺縁殺法殺業。
[10]若佛子。不得畜一切刀杖弓箭鉾斧鬪戰之具。及惡網羅殺生之器。一切不得畜。而菩薩乃至殺父母尚不
加報。況餘一切衆生。若故畜一切刀杖者。犯輕垢罪
T24n 1484 trang 1005c14-17
[11] W.
Donner, “The Bodhisattva Code and compassion: A
Mahāyāna Buddhist Perspective on Violence and
Non violence”, D. Allen (ed) Comparative
philosophy and Religion in Times of Terror, p.
123
[12] Tiếp
theo., p75.
[13] The
Śūraṅgama
Śūtra (Leng Yen Ching), C. Luk (tr.) pp. 90-91
[14] C.
Rinpoche, “The Benefits of Saving the Lives of
Other Beings” (ed) with commentary by Z. Larson,
Compassionate Action The teachings of Chatral
Rinpoche, pp 43-44
[15]
G.S.P. Misra, Development of Buddhist Ethics,
p. 28.
[16]若諸菩薩長養如是種類忿纒。由是因縁不唯發起麁言便息。由忿蔽故加以手足塊石刀杖。捶打傷害損惱
有情。内懷猛利
忿恨意樂
xem luận Du già sư địa
瑜伽師地論
T30n1579 trang 515b28-30
[17]H.
Dayal, The Bodhisattva Doctrine in Buddhist
Sanskrit Literature, p. 199
[18]xem P.
Harvey, An Introduction to Buddhist Ethics
Cambridge: Cambridgre University Press, 2000 p
135.
[19]The
Dalai Lama A Policy of Kindness, S. Piburn (comiled
and ed) Motilal Banarsidass Publishers 2002. p.
82
[20]
弟
三
覺
知,
心
無
厭
足,
唯
得
多
求,
增
長
罪
惡,
菩
薩
不
爾,
常
念
知
足,
安
貧
守
道,
唯
慧
是
業.
Kinh Bát
Đại Nhân Giác.
[21 ] Đức
Phật và Phật Pháp, Narada, Phạm Kim Khánh dịch
NXB TPHCM, 1998 phần (Tứ vô lượng tâm)
[22] J.
Goldstein, One Dharma the emerging western
Buddhism, p.124
[23] I. M.
Ghosh, Ahiṁsā
Budhist and Gandhian, p. 58.
[24] N.
Fujii, Buddhism For World Peace, Y. Miyazaki
(tr) Sterling Publisher 1997.
[25]長阿含經,
T1n1, p. 11a8. xem Dīgha-Nikāya. II.79. M.
Walshe (tr.) The Long Discourses of the Buddha.
p 231
[26] Đức
Đạt-Lai Lạt-Ma. Nói Về Sự Nóng Giận, Hoang Phong
chuyển ngữ
[27] Xem
Đức Phật và Phật Pháp, Narada, Phạm Kim Khánh
dịch NXB TPHCM, 1998
[28] V.V.S.
Saibaba “Contribution of Buddhist Ethics and
State Craft to World Culture, K. Sankernarayan (ed)
Contribution of Buddhism to World Culture,
Somaiya Publication 2004 p. 261.
[29] Thich
Nhat Hanh. “Ahiṃsā:
The Path of Harmlessness.” In David W. Chappell,
ed. Buddhist Peacework: Creating Cultures of
Peace. Boston, MA: Wisdom Publications. 1999, p.
159
[30] K. T.
S Sarao, Origin and Nature of Ancient India
Buddhism Department of Buddhist Studies
University of Delhi 2002 p. 77.
[31] N. H,
Buddhism: “Relevance for Social Uplift Spiritual
Progress and Peace in the New Millennium” K.
Sankanarayan (ed) Buddhism In Global Perspective
, Somaiya Publishcation 2003, Vol. II p. 58.
[32] Tăng
Già Việt Nam, Thích Trí Quang, Thích Chơn Thiện,
PL 2537.


|