Tính Chất Bạo
Động Giữa Các Tôn Giáo
và Tinh Thần Bất
Bạo Động Của Phật Giáo
Thích Trí Giải

Lời nói đầu:
Hiện nay, sinh mạng con người đang bị đe dọa
trong sự khủng hoảng nghiêm trọng bạo động diễn
tiến hàng ngày, sự bạo động với những hình thức
khác nhau như: bạo động chiến tranh, bạo động
tôn giáo, bạo động chính trị, bạo động kinh tế,
bạo lực học đường… Bạo động được biểu hiện từ
thân, khẩu, ý…Nó liên quan trực tiếp đến sự tổn
hại với những người khác…do vì tính chất bạo
động cực đoan dẫn đến khủng bố, chiến tranh chết
chóc. [1]
Vì bài viết ngắn có giới hạn, người viết chỉ
trình bày về vấn đề bạo động giữa các tôn giáo
và tinh thần bất bạo động của Phật giáo.

I. Định nghĩa tôn
giáo
Tôn giáo là một
hệ thống biểu trưng cho niềm tin và sức mạnh
thông qua sự phát triển lịch sử của con người.
Tôn giáo là một hệ thống tổ chức được công nhận,
liên quan đến những vị Thánh thần bao gồm: Niềm
tin, Kinh sách, những vị Lãnh đạo, và một cộng
đồng tín đồ tôn giáo đó.[2]
Vì thế tôn giáo
đóng vai trò quan trọng trong mỗi cá nhân con
người trong đời sống xã hội. Mục đích của tôn
giáo là để hướng thiện con người đi đến con
đường thánh thiện và bất bạo động
Nhưng hiện nay,
các cuộc khủng bố bạo động bắn giết lẫn nhau,
xuất phát từ hệ lụy sự sai lầm về ý thức tôn
giáo mang tư tưởng cực đoan.
Tính chất và
nguyên nhân bạo động Tôn giáo
Nguyên nhân tôn
giáo bạo động, sự truyền bá những tư tưởng chủ
nghĩa cực đoan tạo nên sự bạo động như hai tôn
giáo ở Sri Lanka: Sinhalese Theravāda Buddhism
và Tamils Hindu. Sự bạo động bộc phát chiến
tranh liên tục kéo dài vào những năm 1956-1959,
1977, 1981, 1983, 1987 [3]
Theo W. T.
Cavanaugh cho rằng: Có ba nguyên nhân dẫn đến
bạo động tôn giáo (1) Chính trị (nghĩa là người
theo chính thể chuyên chế); (2) Gây chia rẽ bất
hòa; (3) Thiếu lý trí [4].
Nhất là những tôn
giáo mang tư tưởng chủ nghĩa cực đoan đã tiếp
tay cho những tín đồ cuồng tín sát hại nhân loại
làm mất đi vẻ đẹp của tôn giáo. Đặc biệt nhất là
Hồi giáo tạo ra bạo động chết chóc khắp nơi,
nhất là những vùng Trung Đông và tội ác chiến
tranh ở Sri Lanka. Bạo động giữa Hindu và Hồi
giáo ở Nam Châu Á. Nhiều học giả cho rằng chính
chủ nghĩa cực đoan của Hồi giáo đã tạo ra bạo
động tôn giáo. Sự kỳ thị với Thiên chúa, Hồi
giáo đã tấn công Trung Tâm Thương Mại ở New York
và Pentagon ở Washington D.C vào ngày 11- 09
trên 3.000 người thiệt mạng.[5]
Hồi giáo tấn công
Mumbai năm 2008, tổng cộng 163 người bị giết,
trong năm 2000 bạo động ở Kasmir và Jammu tổng
cộng 398 người bị giết [6].
Chúng ta khảo sát
từng Tôn giáo một
Chúng ta thấy
rằng hai tôn giáo trái ngược nhau hoàn toàn, Hồi
giáo luôn mang tư tưởng cực đoan bạo động giết
người, Phật giáo luôn luôn giáo hóa Phật tử thực
hành tinh thần từ bi bất bạo động (Ahiṃsā)
cấm sát sinh.
Theo học giả
K.H.Shah phát biểu rằng: “Giáo lý của Phật giáo
với khái niệm ‘Ahiṃsā’
(bất bạo động) luôn thể hiện tinh thần từ bi,
thực hành Tứ vô lương tâm (Brahmavihāra=từ, bi,
hỷ, xả) mang đến tình yêu thương cho nhân loại,
đặc biệt nhất giới thứ nhất, Phật dạy cấm sát
sinh để ngăn chận trực tiếp đến sự sát hại sinh
mạng, và tất cả Kinh Phật luôn đề cập đến vấn đề
bạo động như là một tội lỗi, cho nên đức Phật
ngăn cấm tất cả bất kỳ mọi hình thức bạo động.”
[7]
Theo C.Selengut:
“Phật giáo là một tôn giáo của bất bạo động,
không giống như Thiên Chúa, Hồi giáo chưa bao
giờ có một truyền thống bất bạo động, một số
người theo chủ nghĩa Thần học dẫn đến bạo động,
chúng ta cần phải lên án. Đặc biệt là Hồi giáo
luôn phát triển khái niệm ‘Jihād’ (sử dụng niềm
tin) làm vũ khí giết người,” [8]
Điều này lịch sử
chứng minh vào năm 1197 AD, Hồi giáo đã tấn công
giết hại nhiều tu sĩ Phật giáo và hủy diệt Đại
học Nālandā, đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến
sự suy tàn của Phật giáo tại Ấn Độ.[9]
Những bản Kinh
thánh của Hồi giáo mang tư tưởng cực đoan là một
hệ lụy sai lầm dẫn đến bạo động chiến tranh, đổ
máu, chết chóc khiến cho con người rơi vào khủng
hoảng tin thần, Hồi giáo luôn xây dựng tư tưởng
chiến tranh bạo động giết hại, thực hiện theo
Thánh Allah.[10]
Như vậy chúng ta
thấy rằng: Bạo động giết hại tức là chống lại
đời sống của nhân loại là một tội lỗi và vô
minh, sai chân lý của thuyết một thần giáo trong
Kinh Thánh Đạo Hồi. Vì thế Thượng Tọa Rahula nói:
“Phật giáo đứng duy nhất trong lịch sử tư tưởng
nhân loại bác bỏ sự hiện hữu cái gọi là linh hồn,
bản ngã hay “atman=ngã.” Theo giáo lý nhà Phật
quan niệm bản ngã là một ảo tưởng sai lầm không
đi đôi với thực tế và tạo ra có hại cho “ta” hay
“của ta” như tham lam, ích kỷ, dục vọng, thù hận,
tự kiêu, vị kỷ và các tật đố khác. Đó là nguồn
gốc của các phiền não, thế giới dẫn đến mâu
thuẫn chiến tranh các nước, tóm lại, vì điểm sai
lầm này mà tất cả những tội lỗi trên thế giới đã
xảy ra.” [11]
Chúng ta cũng
thấy rằng có rất nhiều lý do đưa ra sự bạo động
tôn giáo, nhưng hầu hết những tôn giáo bạo động
vì mục đích muốn bảo vệ niềm tin và chân lý của
tôn giáo ấy [12]
Ví dụ: Như ở
India-Pakistan vào năm 1947 đã dẫn đến sự bạo
động giữa các tôn giáo Hindu, Hồi giáo và Đạo
Sikh.* Bạo động dẫn đến kết quả giết hại hàng
triệu người chết. Vào đầu tháng 09-1947,
06-12-1992 Hồi giáo và Hindu bạo động đã giết
hại hàng ngàn người, chỉ trong hai tuần đã giết
227 người ở Gujarat, 250 người ở Maharashtra
Mumbai, 55 người ở Karnataka, 14 người ở Kerala,
42 người ở New Delhi, 185 người ở Uttar Pradesh,
1000 người ở Assam, 42 người ở Bihar, 100 người
ở Madhya Pradesh và 23 người ở Andhra Pradesh
[13]
Bạo động tôn giáo
ở Sudan giữa dân Hồi giáo ở phía Bắc và Tín đồ
Thiên chúa ở phía Nam dẫn đến bạo động chiến
tranh [14]
Thống kê số liệu
tôn giáo bạo động giết người chết chóc thật kinh
khủng, một khi tư tưởng tôn giáo mang tính cực
đoan thường dẫn đến bạo động chiến tranh xảy ra
trong xã hội, quốc gia, và thế giới bất an …
Vì thế hầu hết
các học giả và mọi người nhìn nhận Phật giáo là
một tôn giáo không chủ trương bất kỳ hình thức
bạo động nào, Phật giáo luôn lấy đại từ, đại bi,
đạo đức trong tinh thần bất bạo động. Đệ tử Phật
luôn giữ giới thứ nhất: Cấm giết hại sinh mạng,
và giáo lý luân hồi nghiệp báo là kết quả để trả
nghiệp đời vị lai nếu ai tạo ra khổ đau với đời
sống của người khác và chúng sinh. [15]
Nếu Phật giáo như
là một tôn giáo thường xảy ra bạo động ở những
đất nước Phật giáo Theravāda ở Burma và Sri
Lanka, điều này chúng ta cần phải khảo sát lại
mối liên hệ mật thiết vai trò của Tăng sĩ đối
với chính trị [16].
Bởi vì, theo tôi
nghĩ giáo lý của đức Phật chưa bao giờ mang tư
tưởng cực đoan dẫn đến bạo động, Phật giáo luôn
luôn thực hiện tinh thần từ bi bất bạo động đối
với tất cả đời sống của chúng sinh. Điều này tôi
sẽ chứng minh qua giáo lý của đức Phật thể hiện
tinh thần từ bi bất bạo động
Đạo Phật cho rằng
bạo động dẫn đến giết hại đời sống chúng sinh là
tội lỗi, là hành động của tội ác, động cơ gây
nên bạo động xuất phát từ hận thù, tham, sân, si
tạo nên khổ đau đối với người khác [17]
“Vô minh” là
nguồn gốc căn bản, nguyên nhân chính gây nên bạo
động chiến tranh làm mất đi nền hoa bình của
nhân loại, đức Phật phân tích nguồn gốc của bạo
động, gây hấn xuất phát từ tâm.
“Tâm dẫn đầu
các pháp
Tâm là chủ tâm
tạo
Nếu nói hay hành
động
Với tâm niệm bất
tịnh
Khổ não liền theo
sau
Như xe theo bò
vậy” [Pc: 1]
Bởi vậy đức Phật
mới chế giới nhằm tu dưỡng đạo đức và thực hành
thiền định để tâm bình bên trong mỗi người, đức
Phật dạy rằng chính ái dục của con người là
nguyên nhân tạo nên bạo động. Vì thế tất cả lời
dạy của đức Phật nhằm ngăn chặn và tiêu diệt nó.
Trong Kinh Trung Bộ đức Phật dạy tính chất
nguyên nhân của bạo động như sau: "Này các Tỳ
kheo, do dục vọng làm duyên, nên vua tranh chấp
với vua, Sát đế lợi tranh chấp với Sát đế lợi,
Bà la môn tranh chấp với Bà la môn, gia chủ
tranh chấp với gia chủ, cha mẹ, anh em, bè bạn
tranh chấp lẫn nhau. Khi chúng đã dấn thân vào
sự tranh chấp, chúng đánh nhau bằng tay, ném
nhau bằng đá, đập nhau bằng gậy và chém nhau
bằng gươm. Do đó, chúng bị tử thương, hoặc ngắc
ngư quằn quại" [18]
Trong sự khổ đau
quằn quại của bạo động, khiến con người rơi vào
khủng hoảng như đang sống trong một đêm trường
đầy nguy hiểm, thì đạo Phật như là ngọn đuốc
sáng soi đưa con người vượt ra khỏi cơn ác mộng
bằng triết lý sống từ bi và tinh thần bất bạo
động.
II. Tinh thần bất
bạo động của Phật giáo
Tinh thần bất bạo
động trong trong hệ thống giáo lý của Nikāya
đóng một vai trò rất quan trọng đối với nền văn
minh của nhân loại, tinh thần bất bạo động được
được phổ biến rộng trong những bài kinh của Phật
giáo, nhằm ngăn chặn bất kỳ hình thức nào gây
tổn hại đến đời sống của chúng sinh.
Tinh thần bất bạo
động trong Phật giáo thể hiện qua nhiều giới
luật Phật chế, đặc biệt giới thứ nhất trong năm
giới, đó là giới cấm sát sinh.
Tinh thần bất bạo
động đức Phật dạy trong bài kinh Sigālaka-suttas
của Trường Bộ Kinh (Dīgha-Nikāya) sự thực hành
theo con đường Thập Thiện Nghiệp Đạo (daśa
kusala kamma-pattha)** Giới thứ nhất cấm sát
sanh gây tổn hại sinh mạng, phàm là đệ tử Phật
phải thực hành Thập Thiện để sau khi chết sẽ
được sinh Thiên [19]
Hậu quả của Bạo
động: Đạo Phật bao giờ cũng chủ trương tinh thần
từ bi để hóa giải hận thù và tránh xa bao động
theo Tương Ưng Bộ Kinh khi đức Phật nghe cuộc
chiến tranh giữa vua Ajātasattu và Pasenadi
Kosala, Bấy giờ đức Phật dạy hậu quả của chiến
tranh dẫn đến sự nghèo nàn, tổn hại và chết chóc
"Chiến thắng
gây hận thù,
Thất bại chuốc
khổ đau,
Ai từ bỏ thắng
bại,
An tịnh liền theo
sau"
[20]
Người chiến thắng
không nên dửng dưng tự đắc chí, chiến thắng chưa
chắc đã an vui trong cuộc sống hiện tại và tương
lai điều đó không bao giờ có
"Ác nghiệp
chưa chín muồi,
Kẻ ngu tưởng
đường mật.
Ác nghiệp khi
chín thật,
Kẻ ngu chuốc khổ
đau" (Pháp cú: 69)
Trong Kinh
Cūlakammavibhanga của Trung Bộ Kinh (Majjhima-Nikāya)
đức Phật dạy rằng: “Nếu bất kỳ người nào giết
hại sinh mạng con người, bàn tay đẫm máu, đánh
đập gây tổn hại mạng sống chúng sinh, thực hiện
bởi thân, sau khi thân hoại mạng chung sinh vào
địa ngục.” [21]
Vì thế đức Phật
dạy rõ người làm ác dù trốn bất kỳ phương trời
nào, che dấu tội lỗi với con người được, có thể
trốn tránh pháp luật nhưng vẫn không trốn được
quy luật nhân quả nghiệp báo
“Không trời
cao biển rộng
Không hang động
núi rừng
Đã tạo nghiệp ác
độc
Trên đời hết chỗ
dung”
(Pc. 127)
Luật nhân quả,
nghiệp báo rất công bằng, không thiên vị bất cứ
người nào, như dòng họ Thích Ca kiếp trước tàn
sát, gieo ân oán với thái tử Tỳ Lưu Ly. Cho nên
kiếp này phải trả nghiệp, thái tử Tỳ Lưu Ly tàn
sát hết dòng họ Thích Ca, đức Phật vẫn không cứu
được, ngài Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất khi
cứu 500 người dòng họ Thích Ca để vào bình bát,
khi đến trình đức Phật chỉ còn lại bát máu, đức
Phật bảo đó là nghiệp lực của chúng sinh, chúng
sinh phải trả. Như Lai thị hiện giữa cõi đời
nhằm mục đích “khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật
tri kiến.” Như Lai như là một vị Thầy hướng dẫn
chúng sinh tu hành thoát khỏi khổ đau trong luân
hồi nghiệp đạo, Ngài không cứu vớt một ai, “Như
vậy này Ananda, Tỷ kheo tự mình là ngọn đèn cho
chính mình, tự mình y tựa chính mình, không y
tựa một cái gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn
đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không
nương tựa một cái gì khác.” Còn những ai tạo ác
phải chịu luật nhân quả nghiệp báo luân hồi vay
trả, trả vay
"Giết người bị
người giết,
Thắng người, bị
người thắng.
Mắng người, bị
người mắng.
Hại người bị
người hại,
Do nghiệp lực
diễn tiến,
Hại người, thành
hại mình"
[22]
Tinh thần bất bạo
độ của Phật giáo
Bởi vì con người
do dục vọng làm mù quán, kẻ có thế lực mạnh
thường đàn áp kẻ yếu, bắt họ phải khuất phục
theo, chiến thắng thì sinh ra sự kiêu căng phấn
khích tạo thêm mối thù cho thế hệ sau. Kẻ thất
bại thì ôm hận tìm cách chờ cơ hậu để trả thù,
vì vậy đức Phật dạy rằng:
“Hận thù diệt
hận thù
Đời này không có
được
Không hận diệt
hận thù
Là định luật ngàn
thù” [Pháp
cú: 5]
Câu kinh Pháp Cú
này như là một thông điệp hòa bình của Phật giáo
đã vang vọng trên hai mươi lăm thế kỷ, đức Phật
luôn khuyên mọi người hãy lấy tình thương để xóa
hận thù. Ngài tuyên bố rằng kẻ thù nguy hiểm
nhất và đáng sợ nhất chính là phiền não, đó là
tâm niệm ác của chúng ta, những kẻ thù ở bên
ngoài, chúng ta còn có hy vọng tránh né được,
chứ chính chúng ta đã gây nên tội ác thì không
sao tránh khỏi quả báo:
"Kẻ thù hại kẻ
thù,
Oan gia hại oan
gia,
Còn thua tâm niệm
ác,
Do chính ta hại
ta". (Pháp cú.42)
Vì thế chúng ta
cần phải hóa giải những mâu thuẫn nội tại trong
tâm của mỗi người cũng như để giải quyết những
xung đột giữa các cộng động, các tổ chức, quốc
gia, hay các quốc tế.
Hiện nay có những
quốc gia đang lưu trử những vũ khí hạt nhân,
trang bị những vũ khi chiến trang tối tân để
thôn tính tàn sát lẫn nhau. Tại sao vấn đề giải
quyết tranh chấp giữa các quốc gia, (như tranh
chấp biển Đông) không ngồi chung với nhau, mở
rộng lòng mình để thông cảm chia sẻ giúp đỡ lẫn
nhau, tạo nền hòa bình cho nhân loại, Nếu như
chồi nụ, và hoa từ bi héo úa thì con người sẽ
chìm ngập trong đau khổ của chiến tranh tàn khốc,
nhân loại sẽ rơi vào thảm kịch đau thương tột độ.?
Một quốc gia muốn
hưng thịnh, trở thành cường quốc không bị ngoại
xâm, xâm hại và thôn tính, không phải đi chiếm
xâm lấn những đất nước khác mà sức mạnh nằm
trong lòng dân vì thế đức Phật đưa ra bảy nguyên
tắc để một quốc gia hưng thịnh không bị diệt
vong. Khi vua Ajātasattu Vedehiputta (阿闍世
Pl: Ajātasattu Vedehiputto Vua A Xà Thế) của
nước Māgadha (Ma Kiệt Đà) Vua A Xà Thế muốn tấn
công nước Vajjins (跋
祇.
越祇.
Pl.: Vajji= Nước Bạt Kỳ) bấy giờ đức Phật đã dạy
bảy điều để một quốc gia hưng thịnh như sau:
1. Sinh hoạt dân
chủ,
2. Tình đoàn kết
dân tộc,
3. Nguyên tắc
pháp trị,
4. Sự hòa hợp các
thế hệ,
5. Tôn trọng phụ
nữ,
6. Tôn kính các
tín ngưỡng,
7. Ưu đãi các bậc
minh triết
Đây là 7 nguyên
tắc giúp quốc gia hưng thịnh và tránh diệt vong.
Sau khi nghe Tôn giả A Nan trả lời rằng dân
Vajji đã thực hiện 7 pháp này rất tốt đẹp, Đức
Phật kết luận:"Thế thì dân Vajji sẽ phú cường,
không ai có thể chinh phục được". [23] Trong
Brahmajāla sutta (Kinh Phạm Võng) của
Dīgha-Nikāya (Trường Bộ Kinh ) đức Phật đã dạy
tinh thần bất bạo động (ahiṃsā)
cho hàng đệ tử tránh xa mười nghiệp ác để mang
đến sự hoa bình, lòng từ bi mang lại phúc lợi
cho tất cả đời sống chúng sinh,[24]
Nếu trong đời
sống luôn bạo động thì dẫn đến giết hại chết
chóc và tạo sự đau thương cho người khác đó được
xem như là một tội ác, Vì vậy, nếu mọi người
trong xã hội biết trở về với bản tâm thanh tịnh,
thì xã hội trở nên an lạc và hòa bình “tướng tự
tâm sanh.”
Lòng từ bi như là
một yếu tố quan trọng nhất để thiết lập nền hòa
bình vững chắc cho thế giới, vì thế Krishnamuti
một nhà tư tưởng kiệt xuất của Ấn Độ đã nói:
“Phương tiện của hòa bình chẳng gì khó, phương
tiện đó là sự thật và tình thương. Điều ấy phải
khởi đầu từ cá nhân, muốn đi xa phải bắt đầu từ
gần, và việc làm đầu tiên là ở nội tâm, cội
nguồn của hòa bình không phải ở bên ngoài chúng
ta, muốn có hòa bình chung, mỗi chúng ta có hòa
bình trước, muốn chấm dứt bạo lực, chúng ta phải
tự cởi bỏ hết mọi nguyên nhân của bạo lực, mỗi
người phải bắt tay vào việc tự chuyển hóa tâm
mình, tâm trí của chúng ta phải chất phác, trống
rỗng một cách tích cực và chuyên nhất, thì lúc
ấy tình thương mới nảy sinh, chỉ có tình thương
mới mang lại hòa bình cho thế giới” [25]
Trong Kinh Từ Bi
của Suttanipāta đức Phật dạy rằng: “Mọi người
nên phát triển lòng đại từ bi, tình thương yêu
khắp mọi nơi trên thế giới thì chắc chắn không
có kẻ thù và kình địch” [26]
Lòng từ bi như
người mẹ luôn bảo vệ những đứa con thân yêu của
mình, và phát triển lòng từ rộng ra đối với tất
cả chúng sinh
Tinh thần bất bạo
động của Phật giáo được biểu hiện qua Theravāda
vinaya
+ Giới, tiếng
Pāli là Śīla, phiên âm là Thi la, Trung Hoa dịch
là “Giới” có nghĩa là điều ngăn cấm, do đức Phật
chế định cho hàng đệ tử Phật dùng để ngăn ngừa
tội lỗi của 3 nghiệp.
Do vậy, Giới còn
được định nghĩa là:
- Phòng phi chỉ
ác: Ngăn ngừa điều sai trái, chặn đứng việc xấu
ác.
- Biệt giải thoát: Giữ
được giới nào, giải thoát được việc đó.
- Xứ xứ giải
thoát: Nơi nào giới luật được tuân thủ thì nơi
ấy cuộc sống được thanh thoát.
- Tùy thuận giải
thoát: Hướng về con đường giải thoát.
- Thanh lương: Làm
cho cuộc sống mát mẻ, thoải mái.
- Chế ngự: Có
năng lực kiềm chế những việc xấu, ác.
+ Luật, chữ Phạn
là Vinaya, phiên âm là Tỳ-nại-da, nói gọn là Tỳ-ni,
dịch nghĩa là điều phục (chế ngự, nhiếp phục),
diệt (diệt trừ điều ác). Luật là những nguyên
tắc do Phật quy định cho hàng Tỳ kheo áp dụng
khi sống trong tập thể Tăng đoàn.
Tóm lại, giới là
điều răn, luật là quy luật thi hành giới, luật
bao hàm cả giới còn giới chỉ là một bộ phận của
luật. Tuy gọi khác nhau như thế nhưng tánh chất
vốn đồng nên có tên ghép là giới luật, Giới là
nền tảng của đạo đức, nó rất quan trọng trong
đời sống tu hành và thực hiện tinh thần bất bạo
động đối với chúng sinh
Giới được chia là
hai phần, giới tại gia và giới xuất gia
Giới xuất gia
Tỳ Kheo 250 giới
[27]
Tỳ Kheo Ni 341
giới [28]
Sa Di,
Sa Di Ni 10 giới [29]
Giới
tại gia
Ưu Bà
Tắc, Ưu Bà Di: 5 giới [30]
Mục
đích giữ giới, nhằm thực hành tinh thần ahiṃsā
(bất bạo động) tránh xa những điều ác, phát
triển những điều lành, diệt trừ phiền não tham,
sân, si,…Giới luật mang lại hòa bình và hạnh
phúc cho nhân loại cũng như tất cả chúng sinh.
Trong
Thiền môn mỗi tháng tụng giới hai lần
Giới xuất gia:
Đặt biệt trong giới thứ ba của Ba La Di giới (pārājikā)
của Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni không được giết người,
nếu vi phạm thì phạm tội Ba La Di, bị trục xuất
khỏi Tăng đoàn không còn đời sống Tăng sĩ.
a. Ba La Di: Phải
hội đủ năm điều kiện sau:
Nếu Tỳ kheo tự
tay cố ý giết người, “Nói cố là muốn nói rõ rằng
làm đứt mạng căn người khác một cách không nhầm
lẫn”. Tức là giết người có chủ ý, chứ không phải
ngộ sát.
Hoặc tìm người
cầm dao đến giết,
Hoặc xúi giục tự
tử,
Hoặc ca ngợi sự
chết, như nói: "Ôi! Kẻ nam tử, sống với cái thân
nhơ uế để làm gì, chết còn hơn sống"
Dùng phương tiện
ca ngợi rằng chết là thích thú, với ý nghĩ như
thế, tư tưởng như thế chứ không có gì khác, thì
Tỳ kheo ấy phạm tội Ba La Di, không được sống
chung với tăng chúng [31]
b. Thâu Lan Giá:
Nếu các yếu tố
để thành ba la di không trọn:
- Đối tượng muốn
giết là 8 bộ quỷ thần, hoặc súc sanh biến hiện
làm hình dáng người
- Thật loài người,
nhưng còn ngờ không xác định, và các loại biến
hình.
- Giết không đúng
đối tượng muốn giết.
- Đã gây thương
tích trên thân thể đối tượng, nhưng không chết
c. Đột kiết la:
- Giết 8 bộ quỷ
thần, hoặc súc sanh biến hóa, nhưng không chết.
- Thật loài người
nhưng còn ngờ, giết mà không chết.
- Hoàn toàn không
bị thương tích gì do các phương tiện giết người
của mình đặt ra.
d. Không phạm:
- Ngộ sát, không
có tâm sát hại.
- Cuồng si, tâm
loạn v.v... như các giới trước (32).
Còn những giới
khác (tà dâm, vọng ngữ, trộm cướp) đức Phật muốn
ngăn chận trực tiếp sự phá hoại hạnh phúc gia
đình người khác. Như vậy giới xuất gia mục đích
đức Phật ngăn chặn trực tiếp đến vấn đề sát sinh
giết người phạm Ba La Di bị trục xuất khỏi Tăng
đoàn, mất hết giới thể phải chịu luân hồi nghiệp
báo. Còn giết hại loài vật thì phạm Ba Dật Đề
còn có thể sám hối
Còn giới tại gia:
Đây là bước đầu của sự tu học Phật pháp mà cả
xuất gia và tại gia đều phải chấp hành. Bởi vì
Năm giới là căn bản đạo đức làm người, là đức
tính cơ bản của luân lý, là chiếc cầu nối đưa
đến an lạc Niết Bàn.
Giới cũng là yếu
tố để xây dựng nền tảng cho hạnh phúc cá nhân,
gia đình và xã hội. Năm giới đó là:
1. Không được sát
sanh.
2. Không được
trộm cắp.
3. Không được tà
dâm
4. Không được nói
dối.
5. Không được
uống rượu.
Năm giới là nền
tảng của đạo đức rất quan trọng đời sống con
người tại gia, giới sát sinh là sự giết hại sinh
mạng là một hành động phi đạo đức [33]
Giới này không
những quan trọng đối với mỗi cá nhân mà còn rất
quan trọng để mang lại hòa bình và sự tồn tại xã
hội, Phật chế giới cấm sát sinh là để ngăn chặn
trực tiếp đến giết hại sinh mạng. Giới cấm sát
sinh bao gồm cả phẩm chất đạo đức cho con người
thể hiện tình thương, tính bình đẳng tôn trọng
sự sống, lòng từ bi vì vậy đức Phật khuyên đệ tử
Ngài thực hành từ, bi, hỷ, xả, để ngăn chận sự
sân hận không cho phát sinh, và diệt trừ sân hận,
hận thù tồn tại trong tâm. [34]
Còn bốn giới khác
đức Phận ngăn chặn tránh sự phá vỡ hạnh phúc đối
với người khác, vì thế trong Kinh Trung A Hàm
đức Phật dạy:
“Kẻ trí sống tại
gia,
Thấy địa ngục sợ
hãi,
Do thọ trì Thánh
pháp,
Trừ bỏ tất cả ác
Không sát hại
chúng sanh,
Biết rồi hay lìa
bỏ,
Chân thật không
nói dối,
Không trộm của kẻ
khác,
Tri túc với gia
phụ,
Không ái lạc vợ
người,
Dứt bỏ việc uống
rượu,
Gốc tâm loạn
cuồng si
Thường nên niệm
chánh giác,
Suy nghĩ các pháp
lành,
Niệm Tăng, quán
giới cấm,
Do đó được hoan
hỉ…” [35]
Vì vậy giới là
nền tảng căn bản đạo đức của con người, và thực
hiện tinh thần bất bạo động, giữ hòa bình cho
gia đình, xã hội và thế giới, là thềm thang để
đưa con người giải thoát sinh tử luân hồi…
Lợi ích của tinh
thần bất bạo động (ahiṃsā)
Tất cả chúng ta
là người đệ tử của đức Phật phải thực hành theo
đời sống sinh hoạt chung trong đạo đức nhân bản,
để mang lại niềm an lạc, hạnh phúc cho mình và
tha nhân. Muốn có được một nếp sống hòa bình, xã
hội tốt đẹp, tạo một cuộc sống văn minh lành
mạnh trước hết mỗi người chúng ta phải thực hiện
năm giới căn bản và bỏ những bản tính ích kỷ vị
lợi của chính mình.
Hằng ngày chúng
ta phải thay đổi từng giọt máu trong tim hận thù
thành giọt máu tình thương từ bi bát ái, bấy giờ
mọi người sẽ đồng cảm với nhau cùng một nhịp đập
hơi thở của tình thương, biết bảo vệ cho nhau.
Ai ai cũng muốn mình hạnh phúc an vui, thì ít ra
cần phải nổ lực tự cá nhân tu tập theo lời Phật
dạy và có đôi mắt Chánh kiến không rơi và những
lý tưởng cực đoan. Đây chính là lẽ sống là đạo
làm người thoát ra khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não,
vô minh,…Nếu mọi người thoát ra khỏi vòng tham
dục của cái bản ngã nhỏ nhoi, là chấm dứt bạo
động, tạo nên cuộc sống chân thiện mỹ như ngọn
lửa của dục vọng bị dập tắt, khác nào như giọt
nước trượt khỏi lá sen. Vì thế trong Kinh Pháp
Cú đức Phật dạy:
“Ai sinh sống
trên đời
Hàng phục được
tham ái
Khổ đau sẽ vượt
khỏi
Như nước trượt lá
sen” [Pc: 336]
Tinh thần bất bạo
động là nhân cách phần cốt yếu của đạo làm người,
sự hiểu biết tôn trọng nhân cách của tha nhân.
Vì vậy giới luật như là một luân lý một đạo đức
nhân bản để xây dựng một xã hội tốt đẹp không có
chiến tranh bạo động, không có kỳ thị chủng tộc,
và loại trừ mọi cái ác, vì thế Pascal nói: “Luân
lý là một cuốn sách tốt nhất của ta, một cuốn
sách mà ta cần tra cứu luôn luôn”
Tinh thần bất bạo
động nhằm giáo dục về nhân cách đạo đức của mỗi
cá nhân trong gia đình, tập thể, cho xã hội cho
thế giới không riêng một ai: “Tề gia trị quốc
bình thiên hạ” nhà thơ Tố Hữu nói rằng:
“Nếu là con
chim chiếc lá
Thì con chim phải
hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà
không có trả
Sống là cho đâu
chỉ nhận riêng mình”
[Tố Hữu]
Đây là lý tưởng
lợi tha dẹp bỏ tất cả lòng ích kỷ của mỗi con
người, thì tình người càng ấm áp, tình nhân loại
vô cùng thắm thiết, khi nào con người ý thức
được chân giá trị đích thực của tình thương, thì
mới thiết lập một thế giới hạnh phúc và an lạc.
vì thế nhà Bác học toán học A.Einstein nói rằng:
“Tôn giáo của tương lai sẽ là Tôn giáo của toàn
cầu, vượt lên trên mọi thần linh giáo điều Thần
học. Tôn giáo ấy bao gồm cả tự nhiên lẫn siêu
nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý xuất
phát từ kinh nghiệm tổng thể gồm các điều kiện
trên. Trên cái nhất thể đầy ý nghĩa chỉ có đạo
Phật mới có đủ điều kiện ấy”.
Tóm lại qua sự
phân tích ở trên chúng ta thấy rằng: chỉ có đạo
Phật mới lãnh đạo con người đạt đến một nếp sống
hòa bình chân thiện mỹ, không có bạo động chiến
tranh chém giết, thù hận,…Vì thế đạo Phật lấy
biểu tượng hoa sen tượng trưng cho một vẻ đẹp
thuần khiết, vượt lên bùn nhơ để tỏa ngát hương
cho đời,
“Hoa sen tinh
khiết chốn bùn nhơ
Thoát lên mặt
nước tự bao giờ
Tỏa hương thơm
ngát chân thiện mỹ
Tô điểm trần gian
đẹp nên thơ”
(T. Trí Giải)
Hoa sen cũng
giống như Đạo Phật dạy con người vượt lên những
thứ phiền não tham lam, sân si, giận hờn, ích kỷ,
thù hận,…mang lại một thế giới tươi đẹp chỉ có
một màu hòa bình, an lạc và giải thoát.
Chính vì vậy Tiến
sĩ K. N. Jayatilleke nói rằng: "Chính
nhờ lòng từ bi mà Phật giáo đã được truyền bá
khắp một vùng rộng lớn ở Châu Á một cách êm đẹp,
không bao giờ có sự can thiệp của vũ lực hay uy
thế chính trị, không một giọt máu nào phải đổ
trong khi truyền giáo; không một cuộc chém giết
nào xảy ra nhân danh Đạo Phật, hay nhân danh Đức
Thế Tôn, thật là hãnh diện biết bao!"
Thích Trí Giải
Chú thích:
[1]
Encyclopedia of Religion Second Edition, L.
Jones (ed.) Z. Huldrych (transcendental
meditation) Thomson Gale 2005 Vol. XIV, p. 9595
[2]
Ibid., p. 9595.
[3] P.
Harvey, An Introduction to Buddhist Ethics,
Cambribge university Press 2000. p. 258. Và xem
trong H. S. Gregg, The causes of Religious War:
Holy Nations, Sacred Spaces and Religious
Revolution, 2004 p. 90.
[4] W.
T. Cavanaugh, The Myth of Religion Violence,
Oxford University Press 2009 p. 22.
[5] C.
Selengut, Sacred Fury: Understanding Religious
Violence, Altamira Press 2003 p. 3. Và xem
Encyclopedia of Religion Second Edition, op.cit.,
Thomson Gale 2005, Vol. XIV, p. 9596. Xem trong
H. S. Gregg, op.cit, p. 27. Và M. Juergensmeyer,
Terror in the Mind of God: The Global Rise of
Religious Violence, University of Califonia
Press London England 2001, p. 123.
[6] L.
Leo, International Religious Freedom (2010):
Annual Report to congress, 2010 p. 254
[7] K.
H. Shah, The Buddhist Path of Purification Its
Socio-Spiritual Significance, K. Sankarnarayan
(ed.) op.cit., Somaiya Publishcation Mumbai,
New Delhi 2004 Vol.I. pp. 70-71. Và xem
Encyclopedia of Religion Second Edition,
Encyclopedia of Religion Second Edition, L.
Jones (ed.) Z. Huldrych (transcendental
meditation) Vol. XIVp. 9596.
[8] K.
H. Shah, op.cit., pp. 70-71. Xem Encyclopedia of
Religion Second Edition, op.cit., Vol. XIVp.
9596.
[9] M.
Singh, Dalit’s Inheritance in Hindu Religion.
Kalpaz Publications in India 2006 p.110. & xem
K. T. S. Sarao, “Decline of Indian Buddhism” K.
T. S. Sarao (ed.) A Text Book of the History of
Theravāda Buddhism, Dept. of Buddhist Studies,
University of Delhi, 2007 p. 110.
[10] C.
Selengut, op.cit., p. 20
[11]
W.Rahula, What the Buddha taught, Grove Press,
INC, New-Yort,1962, tr.51
* Sikh=
người theo đạo Sikh (tôn giáo) phát triển từ Ấn
Độ và thế kỷ thứ 16 dựa trên tín ngưỡng chỉ một
Thần.
[12] J.
P. Larsson, Understandings Religious Violence
Thinking Outside the Box on Terrorism, Ashgate
Publishing 2004, p. 129.
[13] T.
A. Gilly, Y. Gilinskiy, The Ethics of Terrorism:
Innovative Approaches from an International
Perspective (17 Lectures) Charles Thomas
Publisher Ltd 2009 p. 24.
[14]
Ibid., p. 27.
[15] L.
E. Cady, S. W. Simon, Religion and Conflict in
South and Southeast Asia: Disrupting Violence,
Simultaneously published in the USA and Canada
2007 p. 52.
[16
Ibid., p. 53
** Thân
có 3: không được sát sinh, không được trộm cướp,
không được tà dâm
Khẩu có
4: không được nói dối, không được nói ác khẩu,
không được nói lưỡi hai chiều, không được nói
thêu dệt
[17] K.
Jones, The Social Face of Buddhism An Approach
to Political and Social Activism,Wisdom
Publications, 1989 P. 285.
[18]
Majjhima-Nikāya. I.87. Ñāṇamoli
& Bodhi (tr.) The Middle Length Discourses of
the Buddha, Buddhist Publication Society Kandy,
Sri Lanka1995 p. 18. Xem Trung bộ kinh I, Hòa
thượng Thích Minh Châu dịch Việt. tr.87
[19]
Dīgha-Nikāya. III.184. M. Walshe (tr.) The Long
Discourses of the Buddha., Wisdom publication
1987 p. 463.
[20]
Tương Ưng Bộ Kinh I, Hòa thượng Thích Minh Châu
dịch Việt trang102
[21]Majjhima-Nikāya. III. 204. Ñāṇamoli
& Bodhi (tr) op.cit., pp. 1053-1054.
[22]
Tương Ưng Bộ Kinh I,Hòa thượng Thích Minh Châu
dịch Việt trang. 103
[23]
長阿含經,
T1n1, p. 11a8. xem Dīgha-Nikāya. II.79. M.
Walshe (tr.) The Long Discourses of the Buddha.
p 231.
[24]
Dīgha-Nikāya. I.6. M. Walshe, op.cit., p. 68.
Xem Anguttara Nikāya. II.208. F. L. Woodward
(tr.) the Book of the Gradual Sayings, London
Published for the Pali text society 1960 p. 27
[25]
Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nguyễn Lang, Hà Nội
1994
[26]
Suttanipāta, N. A. Jayawickrama, Post-Graduate
Instute of Pāli & Buddhist Studies University of
Kelaniya 2001 (tr.) p. 58
[27]
xem
律比丘戒,T22n1429,
p.1015a19.
[28]
xem
四分比丘尼戒本
T22n1431,p.1031a03.
[29]
xem
沙彌十戒,T24n1471,
p. 926b08. Và
沙彌尼戒,T24n1474,
p. 937a13.
[30]
xem
佛説優婆塞五戒相經,T24n1476,
p. 939c15. & xem D. Keown, Buddhist Ethics A
Very Short Introduction, Oxford University Press
2005 p. 9. xem B. Lokhande, “Unique Contribution
of Buddhism to The World Culture” K.
Sankarnarayan (ed.) op.cit.,pp. 154-155.
[31]若比丘。故自手斷人命。持刀授與人。歎譽死快勸死。咄男子。用此惡活爲。寧死不生作如是心。思惟種種方便歎譽死快勸死是比丘波羅夷不共住,
T22n1429, p. 1015c13-16. Và xem. H. Shukla, “Pañcaśīla”,
M. Tiwary (ed.) Perspectives on Buddhist Ethics,
Dept. of Buddhist Studies, Delhi University,
1989 p. 80
[32]
Toàn Tập Tâm Như Trí Thủ Tập 3 Hiệp Chú Chương I
NXB TPHCM 2001
[33] H.
Shukla, op.cit., p. 80
[34]
Tiếp theo.,
[35]中
阿
含
經
Kinh Trung A Hàm Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc
Phật Niệm, Việt Dịch & Hiệu Chú: Thích Tuệ Sỹ,
Phẩm Đại, Kinh Ưu Bà Tắc


|