Kinh Nghiệm
Truyền Bá và
Phát Triển Phật
Giáo tại Âu Châu
Thích Như Điển
Kinh nghiệm
truyền bá và phát triển Phật Giáo tại Âu Châu –
đặc biệt là Đức quốc
Đạo Phật như một
cây đại thọ, có gốc rễ đã bám chặt sâu vào lòng
đất của Á Châu hơn 2500 năm lịch sử. Do vậy gốc
rễ ấy đã quá vững vàng để cho những cành lá ấy
vươn cao mãi cho đến tận trời Tây và Phật Giáo
đó ngày hôm nay đã có mặt khắp năm châu trên quả
địa cầu nầy.
Sau khi vua A Dục
(304 BC – 232 BC) quy y với Đạo Phật và gửi
nhiều đoàn truyền giáo sang các nước Âu Châu như
Hy Lạp, Iran, Irak, Alexandria…. Thì nghiễm
nhiên giáo lý của Đức Phật đã có mặt tại các xứ
Trung và Đông Âu này từ những ngày mà Thiên Chúa
chưa xuất hiện. Vì vậy mà thuở bấy giờ những
Tăng Sĩ và giáo đoàn cũng như tự viện đã được
phát triển một cách hùng mạnh, đã chiếm cứ một
phương trời triết học, nghệ thuật, văn hóa cũng
như đạo đức tại những xứ này. Đó là kết quả của
những nhà khảo cổ học gần đây đã khai quật được
nhiều di tích tại xứ Alexandria cũng như tại Hy
Lạp. Điều này chứng tỏ rằng Phật Giáo đã vang
bóng một thời tại những xứ ấy.
Sau đó thì các
đạo khác xuất hiện và Phật Giáo vốn chủ trương
ôn hòa, bất bạo động; nên đã bị các tôn giáo
khác như Hồi Giáo đã thanh toán, chiếm hữu
và giết chóc cũng như phá hoại không biết bao
nhiêu là tự viện, tu sĩ và những giá trị tinh
thần khác. Ngay cả tại Ấn Độ; nơi quê hương của
Đạo Phật cũng đã trải qua không biết bao nhiêu
thăng trầm như thế. Phật Giáo không chùn bước
với những thử thách và chịu đựng ấy; Phật Giáo
đã nép mình vào sự tồn tại của dân chúng mà thị
hiện qua niều hình thức khác nhau và trong những
thời kỳ bị đánh hại như thế, Phật Giáo chỉ còn
tồn tại trong những hình thức nghi lễ, cúng bái
cũng như đức tin Trời Phật mà thôi. Đây chính
là cái nhân để gìn giữ lửa trí tuệ cho những
thời kỳ phục hưng sau nầy tại Âu cũng như Á Châu.
Đọc sử Âu Châu
không thấy nói nhiều về sự hiện diện của Phật
Giáo tại châu này vào những thế kỷ sau Thiên
Chúa cho đến thế kỷ thứ 17, 18. Có lẽ vì ảnh
hưởng của Thiên Chúa Giáo trong những thế kỷ ấy
quá lẫy lừng tại châu này; nên Phật Giáo lại ẩn
nhẫn đâu đó để tự tiếp cận về sau này, nơi những
nhà triết học của Âu Châu chăng? Trải qua những
lần chinh đông của quân đội các nước Âu châu để
đi tìm thuộc địa, trong đó có Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha, Pháp, Anh, Hòa Lan v.v... đã để lại nơi
những con người khoa học Âu Châu trong khi tìm
kiếm một giá trị tâm linh đích thực của những
dân tộc Á Châu ấy thì họ đã bắt gặp Phật Giáo và
cũng chính những người ra đi viễn chinh ấy họ đã
mang về cho quê hương của họ những chiến lợi
phẩm đã nhặt được tại Ấn Độ, Tích Lan, Việt Nam
v.v... gồm những tượng Phật, kinh điển bằng
tiếng Pali hay Hán văn. Kể từ đó những nhà
nghiên cứu mới bắt đầu làm quen với Đạo Phật.
Như vậy, trong
cái rủi lại có cái may và trong cái may ấy lại
ẩn chứa những rủi ro khó lường được về sau nầy.
Cái rủi là thuở ấy những người Á Châu chúng ta
không có đủ phương tiện thuyền bè như người Âu
Châu để chinh Tây như người Tây Phương đã đến
chinh phục chúng ta vào những thế kỷ 16, 17, 18
và 19; nhưng được cái may là giáo lý của Đạo
Phật được tự động tràn ngập vào Tây Phương từ
hàng thượng lưu trí thức và từ đó giáo lý ấy đã
được truyền bá rộng rãi trong khắp Âu Châu ngày
nay.
Nhưng trong cái
may ấy cũng có cái rủi là không có người lãnh
đạo những phong trào học Phật này. Đúng là trăm
hoa đua nở. Lý do chính đáng để trăm hoa nầy đua
nở. Vì các nhà học phật Âu Mỹ nầy họ đã chán
ngấy những tôn giáo độc thần, mọi quyền của con
người đều được ban ơn bởi một vị Thượng Đế. Do
đó mà họ muốn thoát ra khỏi những kỷ cương vốn
đã trói cột họ suốt hơn 2000 năm nay. Đây là lý
do chính để họ thấy rằng ở Đạo Phật có một cái
gì đó công bằng hơn. Vì mọi người đều có khả
năng thành Phật và ngay cả người nữ đối với Đạo
Phật cũng có một vai trò và giá trị cao hơn là
những Tôn Giáo khác; nên họ đã chấp nhận Đạo
Phật một cách rất dễ dàng. Rồi từ đó họ đi vào
giáo điển bằng tiếng Pali, Tây Tạng, Trung Hoa,
Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam và Phạn Ngữ.
Riêng tại nứơc
Đức này cách đây hơn 200 năm có nhà văn đồng
thời là triết gia đã bắt đầu làm quen với Phật
Giáo. Đó là Schopenhauer
(22.02.1778-21.09.1860), ông ta không hẳn là một
Phật tử, nhưng ông đã thích giáo lý của Đạo Phật
và hình ảnh tượng Phật đầu tiên đã có nơi phòng
làm việc của ông vào những năm ở đầu thế kỷ 19
đã khiến cho những nhà Phật học khẳng định rằng:
Phật Giáo tại xứ Đức nầy đã bắt đầu từ đó. Đồng
thời với Schopenhauer, tại Việt Nam chúng ta có
đại thi hào Nguyễn Du. Nguyễn Du đã phải tụng
kinh Kim Cang hơn 300 biến mới hoàn thành được
tác phẩm “Kim Vân Kiều” là một câu chuyện bên
Trung Quốc nhan đề là “Thanh Tâm Tài Tử Truyện”
hay “Đoạn Trường Tân Thanh” vốn dĩ là một áng
văn xuôi rất bình thường đã xuất hiện vào triều
nhà Minh, ở vào thế kỷ thứ 13, 14. Thế nhưng khi
tác phẩm ấy đã vào tay cụ Nguyễn Du, là một bậc
quan lại của ba triều (1) nghiễm nhiên đã trở
thành một tuyệt tác văn chương, mà có lẽ trước
và sau đó
(1) Đó là triều
chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Triều Nguyễn Huệ Tây
Sơn và triều Gia Long Nguyễn Ánh trong lịch sử
văn học Việt Nam không có tác phẩm nào có thể
sánh bằng với tác phẩm nầy. Vả chăng tinh thần
Tam Giáo đồng quy đã thể hiện được trong tác
phẩm nầy qua cái nhìn biến thiên của lịch sử.
Giả dụ, nếu tác phẩm này có tồn tại ở Trung Quốc
trong 1000 năm sau nữa, cũng chỉ thế thôi. Nó sẽ
trở về trong quên lãng. Nhưng ở đây may mắn nó
đã lọt vào tay của cụ Nguyễn Du và chính nó đã
làm đẹp đẽ giang sơn văn học Việt Nam, chứ không
là của Trung Quốc.
Đạo Phật cũng như
thế, khi du nhập vào các nước Âu Châu đã biến
thể khá nhiều. Đầu tiên có những nhà nghiên cứu
người Âu Châu sau khi thâm hiểu giáo lý của Đạo
Phật ít nhiều, họ đã tự động sang Á Châu để xuất
gia học đạo, trong đó có Ngài Nyanatiloka (2)
người Đức, Ngài sang Tích Lan kể từ sau đệ nhị
thế chiến (1939-1945) và viên tịch tại đó. Trong
thời gian Ngài ở Tích Lan, rất tích cực trong
việc dạy Thiền cũng như phiên dịch những kinh
điển từ tiếng Pali sang tiếng Anh và tiếng Đức.
Ngài không về lại Đức. Vì lẽ xứ Đức đối với Ngài
chưa có cơ duyên; trong khi đó Tích Lan là một
xứ Phật Giáo; nên Ngài đã không rời bỏ nơi mà
Ngài đã tu học trong nhiều năm tháng.
Rồi những năm đầu
thế kỷ thứ 20 nầy, người ta đã để ý đến Zen của
Nhật Bản, qua sự truyền bá của Daisetsu Suzuki
(1870-1966), là người Nhật có vợ Anh và những
tác phẩm của ông như “Easy Zen and Easy Practise”
đã làm cho nhiều người Âu Mỹ, nhất là người Đức
ưa chuộng phong thái mới nầy. Nó rõ ràng hơn và
an ổn hơn là đi vào thế giới tiếng Pali không
đơn thuần chút nào ở những giai đoạn đầu học
Phật.
Rồi các triết gia
Friedrich Nietzsche (1844-1900) hay Sigmund
Freud (1856-1939) và Hermann Hesse (1877-1962)
là những người không nhiều thì ít đã ảnh hưởng
tinh thần khai phóng tâm linh của Phật Giáo qua
tác phẩm „Ánh Sáng Á Châu“ (The Light of Asia)
của Edwin Arnold (10.06.1932-24.03.1904). Để từ
đó họ có những sáng tác độc đáo như “Đường về
nội tâm” (Der Weg nach Innen) của Herman Hesse.
Chính những tư tưởng của những triết gia này đã
ảnh hưởng không ít đối với người đương thời và
ngay trong hiện tại, không thiếu những người
nhắc nhở đến họ.
Đặc biệt nhất ở
xứ Đức này phải nhắc đến nhà Bác học Albert
Einstein (14.03.1879-18.04.1955). Ông ta là
người Đức gốc Do Thái sinh ra tại Neu Ulm thuộc
miền Nam nước Đức. Lớn lên ông học hành cũng
bình thường; nhưng sau đó nhờ đi dạy học tại
Thụy Sĩ và nhờ phát minh thuyết tương đối
(Reality Theory); nên đã được thế giới ngưỡng mộ.
Sau đệ nhị thế chiến, ông di dân qua Hoa Kỳ và
lập nghiệp cũng như chết tại đó. Ông đã viết rất
nhiều sách và diễn thuyết rất nhiều nơi trên thế
giới; nhưng với ông đặc biệt có ba điều mà người
Phật tử chúng ta cần nên nhớ. Ông nói: “Điều thứ
nhất, người Phật tử không cần đi tìm Đạo Phật
nơi khoa học, vì trong Đạo Phật đã đầy đủ tính
chất khoa học rồi.
Điều thứ hai, tôi (tác giả) không phải là một
Phật tử. Nhưng nếu tôi theo một Tôn Giáo, tôi sẽ
chọn Phật Giáo.
Điều thứ ba, kể từ thế kỷ thứ 21 trở đi không có
Tôn Giáo nào có thể phát triển mạnh trên thế
giới bằng Đạo Phật.”
Ta có thể nói rằng: Nhà Bác học Albert Einstein
là một người Phật tử chưa quy y Tam Bảo và rất
có thiện cảm với giáo lý của Đạo Phật mà ở vào
cuối thế kỷ thứ 20. trên quả đất này có sáu tỷ
người, trong khi đó Liên Hiệp Quốc đã chọn ông
là người tiêu biểu và là cha đẻ của thuyết tương
đối. Từ đó ta hãnh diện là một người Phật tử đã
chọn đúng đường cho nội tâm của mình.
Đức Phật nói
trong luận A Tỳ Đàm về việc thành lập các thế
giới (3) đã khẳng định rằng vũ trụ nầy còn tồn
tại lâu bền hay sẽ vỡ tung ra trong thời gian
dài ngắn là do con người biểu hiện qua các việc:
Có kính trọng cha mẹ, Thầy Tổ; có hòa thuận với
anh chị em trong gia đình; có tu bát qua trai,
làm lành lánh dữ hay không; chứ không phải quả
đất nầy được cai quản bởi một vị chúa tể nào.
Đây là một nhận định khoa học, khách quan mà Đức
Phật đã dõng dạc tuyên bố như thế qua tuệ giác
siêu việt chứng ngộ của mình.
Cũng như gần đây
nhà Bác học Stephen Hawking (sanh 08.01.1942) là
người Anh. Ông ta đã chứng minh như Đức Phật là
thời gian không có bắt đầu và không có cuối cùng.
Rõ ràng là giáo lý ấy đã được người Âu Mỹ và đặc
biệt là những học giả của thế giới đã tán đồng.
Do vậy đề tài “Phật Giáo trong thời đại mới: Cơ
hội và thách thức” có lẽ sẽ không dừng lại đây
mà sẽ triển khai ở nhiều phương diện, để Đạo
Phật càng ngày càng được thăng hoa hơn.
Vào giữa thế kỷ
thứ 20 một phong trào học Phật mới tại Âu châu
nầy đã bùng nổ mạnh. Đó là Phật Giáo Tây Tạng.
Qua hình ảnh của Đức Đạt Lai Lạt Ma mà giáo lý
Mật Tông đã được truyền bá khắp nơi. Từ thành
phần trí thức, đến những người dân dã đã đổ xô
đi nghe Ngài thuyết giảng, hay muốn gặp gỡ Ngài
để được ban phước lành và đặc biệt là học hỏi
những tư tưởng thâm sâu của Phật Giáo Tây Tạng
đi từ Nhất thừa, đến Bích chi Phật thừa, Bồ Tát
đạo rồi mới vào được Kim Cang thừa. Đây là điểm
son của lịch sử truyền thừa Phật Giáo trên thế
giới.
Ở Đạo Phật không
có cơ quan truyền giáo; nhưng ở Phật Giáo có một
chất liệu thẩm thấu rất ly kỳ; nó giống như nước
cứ chảy đến đâu là thấm vào lòng đất tại đó và
không bị đất đẩy ngược lại. Nhìn lại lịch sử
truyền thừa từ Ấn Độ qua Trung Hoa cũng thế.
Thuở ấy Phật Giáo đã nhờ Lão Giáo nên đã thâm
nhập vào đất Trung Hoa một cách dễ dàng; nếu chỉ
qua con đường Nho Giáo thì có lẽ Phật Giáo đã
giậm chân tại chỗ. Ngược lại Việt Nam chúng ta
thì qua những nhà Nho và qua những bậc vua chúa
mà Phật Giáo đã được truyền vào đây một cách dễ
dàng. Phật Giáo Nhật Bản cũng thế. Thánh Đức
Thái Tử (Shotoku Taishi) là một ông vua vào thuở
thời Đường hưng thịnh bên Trung Hoa, ông ta cũng
làu thông kinh sử; nhưng ngược lại đã chọn Phật
Giáo làm quốc giáo cho thần dân. Ngoài ra trong
điều 3 của Hiến pháp Nhật Bản lúc bấy giờ còn
lấy Tam Quy Ngũ Giới cho vào đó để thực hiện
việc cai trị dân của Thái Tử. Quả thật Đạo Phật
đã ở trong lòng người.
(2) Antom Gueth,
1878 – 1957
(3) Do TT. Thích
Như Điển dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt –
Sariputra Giáo Dục Từ Thiện Hội xuất bản năm
2006 tại Hoa Kỳ.
Chúng ta cũng sắp
kỷ niệm 1000 năm Thăng Long lịch sử (1010 –
2010) chắc chắn không thể không nhắc đến Vạn
Hạnh Thiền Sư vốn là một nhà Nho và đã bỏ Nho
theo Phật và vai trò của Lý Công Uẩn trong việc
trị nước an dân qua tinh thần của Phật học. Như
thế chúng ta có thể khẳng định rằng Phật giáo đi
đến đâu đã hòa nhập một cách tài tình vào tinh
thần cũng như cách sống, phong tục, văn hóa, tập
quán của nước đó.
Người
Đức
vốn là một dân tộc trọng kỷ luật và có tinh thần
tự giác rất cao. Ngoài ra bên ngoài tuy họ lãnh
đạm; nhưng bên trong có một quả tim rất từ bi,
có một tình thương vô tận. Vì họ đã kinh qua
những lò thiêu Do Thái của Hitler và trải qua
chiến tranh đau khổ của đệ nhất và đệ nhị thế
chiến; nên sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 họ đã
dang tay ra để đón nhận hơn 100.000 người Việt
Nam đến đây để tỵ nạn, sinh sống và bây giờ
chúng ta đã và đang xây đắp cho quê hương nầy
một viên gạch tâm linh của Phật Giáo vào tòa nhà
cao nhất của 200 năm lịch sử truyền thừa nầy và
dân tộc Đức đã chấp nhận Phật giáo một cách dễ
dàng từ chính quyền trung ương đến địa phương.
Từ những người thượng lưu trí thức, cho đến
những người bình dân ở nhiều khía cạnh khác
nhau. Đây quả thật là pháp Phật nhiệm mầu và hầu
như đã không có một sự chống đối nào khi Phật
giáo Việt Nam của chúng ta hội nhập vào xã
hội nầy.
Vì người Đức quan
niệm rằng: Một người không có đạo đức Tôn Giáo
là người ấy dễ phá rối nền an ninh trật tự của
xã hội nầy; nên chính quyền đã giúp cho Tôn giáo
về văn hóa cũng như ổn định xã hội bằng phương
pháp tạo điều kiện cho người có tôn giáo tham
gia hoạt động Tôn giáo nhiều hơn để khỏi gây ra
những tệ nạn trong xã hội, mà vốn dĩ công tác
này là những chuyên đề của những vị lãnh đạo
tinh thần của Phật giáo, có thể giúp đỡ cho
chính quyền Đức ổn định trật tự trong xã hội nầy.
Ở đây người ta
không cai trị dân bằng sự “gọi dạ bảo vâng” mà
họ nghe tiếng nói từ dân và do dân đề nghị, cũng
như giải quyết những nhu cầu của người dân,
trong đó có vấn đề Tôn giáo, là một vấn đề ưu
tiên mà nhà nước phải đặc biệt quan tâm đến đời
sống tinh thần của họ. Có như thế cuộc sống xã
hội mới được an bình và quốc gia mới được thịnh
trị.
Tôi vốn xuất thân
là một nhà giáo dục Phật giáo đi từ Á sang Âu và
khi đến đây, thấy vấn đề tổ chức xã hội của họ
có quy củ và chặt chẽ như thế nên đã cúi đầu
chào khâm phục và bắt tay cộng tác để làm những
công việc xã hội văn hóa mà Tôn giáo của mình
vốn đã không xa lạ gì trong mấy ngàn năm lịch sử
tại quê hương Việt Nam yêu dấu ấy.
Đem chuông đi
đánh xứ người, quả không phải là điều dễ dàng gì;
nhưng riêng cá nhân tôi đã cố gắng qua 47 tác
phẩm bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Việt,
Anh, Hoa, Nhật, Đức ngữ đã và đang đóng góp phần
mình về vấn đề tâm linh cho ngôi nhà Phật Giáo
tại Đức nầy.
Theo tôi nghĩ
những bậc Tổ Sư của chúng ta như Ngài Ma Đằng,
Ngài Trúc Pháp Lan khi qua kinh đô Lạc Dương của
Trung Quốc vào thời nhà Hán chắc rằng các Ngài
cũng bỡ ngỡ lắm, vì ngôn ngữ không thông; nhưng
qua kinh tứ Thập Nhị chương mà quý Ngài đã phiên
dịch tại chùa Bạch Mã và những bản kinh sau đó,
quả đã đóng góp và tích tụ bằng nhiều năm tháng
kinh qua để được hội nhập vào cuộc sống tâm linh
ấy thuở bấy giờ, quả thật vấn đề ngôn ngữ là vấn
đề tối trọng đại.
Người Nhật có câu
tục ngữ rằng:
“Go ni ireba, go
ni sitagae”. (vào làng phải theo làng đó)
Người Trung Quốc
có câu:
“Nhập gia tùy tục,
nhập giang tùy khúc”
Và người Anh có
câu:
“When you are in
Rome do as Romans do”
Quả là sự ly kỳ
cho việc truyền thừa Phật Giáo tại xứ nầy.
Ở Đức, Phật Giáo
Việt Nam mới có mặt độ 30 năm; nhưng Phật Giáo
đã bước đi những bước rất chậm và chắc như câu
tục ngữ Đức: “Langsam aber sicher” (chậm mà chắc)
và hy vọng ở thế hệ thứ 2, thứ 3 trở đi Phật
Giáo Việt Nam sẽ có chân đứng vững chãi tại xứ
nầy (4). Một điều rất rõ ràng là bây giờ người
Đức có một số lớn đọc, tụng được kinh tiếng Việt
và người Việt sinh ra và lớn lên tại xứ Đức nầy
bắt đầu từ thế hệ thứ 2 trở đi đã đọc, tụng kinh
được bằng tiếng Đức. Đây là một sự giao thoa về
mặt văn hóa và Tôn Giáo mà chúng ta thật ra khó
có một cơ hội định trước. Có lẽ các pháp tất cả
đều do nhân duyên sanh và tất cả các pháp cũng
sẽ do nhân duyên diệt. Nếu thuận lợi thì sẽ tồn
tại và phát triển. Nếu nghịch duyên thì giáo lý
ấy sẽ ẩn mình, hoặc chuyển sang một hướng khác
để tự tồn. Điều này lịch sử đã chứng minh và dĩ
nhiên lịch sử không là vấn đề lập lại mà lịch sử
là sự trải dài của thành, trụ, hoại, không.
(4) Xin đọc thêm
sách tiếng Đức, của Dr Martin Bauman về sự hình
thành của Phật Giáo Việt Nam tại Đức
Vui, buồn, khen,
chê, được, mất, lợi, bất lợi v.v… đó chẳng qua
là những đối đãi trong cuộc đời và tất cả không
thật tướng. Vì thật tướng của chơn lý vốn là
không như trong Bát Bất Trung Đạo, Ngài Long Thọ
(Nagarjuna) đã dạy cho chúng ta gần 2000 năm
lịch sử rồi.
Đối với
khoa học cái gì càng mới bao nhiêu, càng có giá
trị bấy nhiêu. Vì đó là những sản phẩm của văn
minh và trí tuệ. Còn đối với Tôn Giáo, những gì
càng cũ kỹ bao nhiêu và được tồn tại qua thời
gian năm tháng lâu dài thì đấy chính là văn hóa
và đấy chính là niềm tin vào một Tôn Giáo. Nhưng
điều quan trọng nó không nằm trong chiều dài của
lịch sử tồn tại Tôn Giáo đó, mà nó chỉ có giá
trị của bề dày lịch sử và cuộc đời mà tôn giáo
ấy đã, đang cũng như sẽ đóng góp cho nhân
loại mà thôi.
Tôi xa nước từ
năm 1972 để đi Nhật và qua Đức trực tiếp từ Nhật
năm 1977. Cho đến nay ở ngoại quốc đã gần 35 năm
và ở Đức gần 30 năm chưa một lần về thăm xứ;
ngoại trừ năm 1974 có 1 tháng thăm quê. Thế
nhưng quê
hương và đất nước là những tình tự dân tộc mà
người con xa xứ không được quyền quên. Vì nơi đó
đã sinh ra mình và nuôi mình lớn lên thành
người. Nay Thượng Tọa Giáo Sư học giả và Sử gia
Trí Siêu Lê Mạnh Thát tổ chức được một buổi hội
thảo khoa học về Phật Giáo trong thời đại mới
như thế nầy, quả là điều đáng ngưỡng vọng và
thán phục biết bao. Ở xa, tôi chưa về thăm quê
được; nên xin gởi bài này để đóng góp vào việc
phát triển Phật Giáo Việt Nam trong mai hậu và
xem đây như là một chút tình quê của người
sống ly hương đang vời trông về cố quốc.
Thích Như Điển
|