Tìm Hiểu Nhẫn Nhục Ba-La-Mật
Thích Trí Giải
1. Định nghĩa
nhẫn nhục:
Chữ “nhẫn” trong
chữ Hán được viết như sau:
刃
(nhận) +
心
(tâm) =
忍.
Chữ
刃
(nhận) nghĩa là sự nguy hiểm, mũi nhọn, chém
giết. Chữ
心
nghĩa “tim”, chữ tâm được dùng rất phổ biến như
tâm cảnh 心境, tâm
địa 心地
nghiên cứu về hiện tượng ý thức gọi là tâm lý
học
心理學,
Phật học thì thượng gọi vạn pháp duy nhất tâm,
gọi tắc duy tâm
唯心.
“Tâm
được chia làm hai phần,
(1) vọng
tâm 妄心 cái
tâm nghĩ ngợi lan man sằng bậy, (2) chân
tâm真心 cái
tâm nguyên lai vẫn sáng láng linh thông, đầy đủ
mầu nhiệm không cần phải nghĩ mới biết, cũng như
tấm gương trong suốt, vật gì qua nó là soi tỏ
ngay, khác hẳn với cái tâm phải suy nghĩ mới
biết, phải học hỏi mới hay. Nếu người ta biết rõ
cái chân tâm (minh tâm 明心)
mình như thế mà xếp bỏ sạch hết cái tâm nghĩ
ngợi lan man sằng bậy đi thì tức thì thành
đạo ngay”. [1]
Theo Hán-Việt tự
điển thì chữ “nhẫn”
忍
có nghĩa là nhịn,
như làm việc khó
khăn cũng cố làm cho được gọi là kiên nhẫn
堅忍,
nhẫn là lòng khoan dung độ lượng. Tại sao chữ
nhận
刃
(nhận) nằm trong chữ tâm
心
gọi là nhẫn, nghĩa là người tạo chữ muốn nói
trong cuộc sống hằng ngày tâm mình thường hay
tiếp xúc nhiều thứ nguy hại như những phiền não
tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến…chúng thường
làm não hại tâm mình. Cho nên nhẫn nhục là tâm
phải chịu đựng những sự não hại bên ngoài mà tâm
không sân hận (刃
(nhận) +心
(tâm) =
忍
nhẫn.)
“Nhẫn nhục tiếng
Phạn gọi “Kṣānti” là một phương pháp tu
của Bồ-tát trong lục độ ba-la-mật, từ “nhẫn” có
nghĩa nhẫn nhịn, kiêng cữ, kiên nhẫn, sự ôn hòa”.
[2]
“Chân thực và nhu
hòa
Kham nhẫn và dịu
hiền
Hòa thuận và đón
tiếp
Bất hại và thanh
tịnh”
[3]
Theo D.T. Suzuki
giải thích ý nghĩa “nhẫn nhục” như sau: “không
cảm giác thất vọng khi đối diện với những điều
xấu”, nhẫn nhục luôn đối trị sự tức giận (krodha),
lòng căm thù (dveṣa) sự đáng ghét, không
ưa (pratigha) và
tính
hiểm độc, ác tâm, ác ý
(malice). Vì vậy, “nhẫn nhục” được định
nghĩa là một sự giải thoát từ cái tâm giận dữ,
và sự kích động (gây hấn, phấn khích) thối quen
thường chịu đựng, tha thứ sự tổn thương (gây hại)
và xúc phạm”.[4]
“Nhẫn nhục
Ba-la-mật là chịu đựng những phiền não mà người
khác gây ra cho mình và gánh chịu những lỗi lầm
của kẻ khác, Bồ-tát tu pháp nhẫn nhục thậm chí
chặt đứt một cánh tay hoặc một cái chân vẫn
không uất ức khó chịu” [5]
Hành giả tu nhẫn
nhục phải thực hành trên ba phương diện nhẫn
thân, nhẫn khẩu, và nhẫn ý
Nhẫn thân, nhẫn
khẩu, với nhiều người
Ý nhẫn không sân,
mọi việc vui
Đức hạnh chân tu,
cầu giải thoát
Mọi người học
Phật, nhẫn soi đời
(Trí Giải)
Trong Phật giáo
nhẫn nhục không phải là sự bi lụy, yếu đuối, hèn
hạ, nhẫn là một thái độ tích cực rất sáng suốt
do trí tuệ dắt dẫn, khi vấp phải những thất bại
không chán nản tuyệt vọng, đạt được thành công
không kiêu căng tự đắc, đó là ý nghĩa của nhẫn
“Ở
đời sống đạo hãy tùy duyên
Tâm trí an vui
chẳng lụy phiền
Ngoại cảnh sáu
trần không dính mắc
Nội tâm bát thức
hãy điềm nhiên
Niệm tưởng khởi
lên liền buôn xả
Chân tâm vắng
lặng thấy bình yên
Ấy là chân thật
cho cuộc sống
Không bị lụy
phiền cảnh đảo điên
(Trích
“Bước Chân Xuất Thế”)
"Trong hạnh phúc,
trong phiền lụy, lúc thăng, lúc trầm, ta phải
giữ tâm như đất, cũng như trên đất ta có thể vất
bất luận thứ gì, dầu chua, dầu ngọt, dầu sạch,
dầu dơ, đất vẫn thản nhiên, một mực trơ trơ đất
không giận, cũng không thương."
2. Phân loại
nhẫn nhục:
Nhẫn nhục:
là một đức tính quan trọng của người Phật tử, tỏ
rõ sức mạnh nội tâm, cũng là một trong 6
Ba-la-mật của Bồ-tát hạnh. Nhẫn có 3 loại: [6]
Sinh nhẫn
(chúng sinh nhẫn) như muỗi, kiến cắn không giận,
không giết hại, không sân hận với người sân hận,
không chửi mắng người chửi mắng mình, còn gọi là
hữu tình nhẫn
“Nhẫn,
vô trước: giáp sắt,
An ổn, đi đúng pháp.
Tiến thẳng không thối lui,
Không có gì lo sợ;
Người trí ruổi chiến xa,
Dẹp kẻ thù vô trí” [7]
Đức Phật dạy: "Người tu hành theo Đạo như một
người chiến đấu với vạn người. Mặc áo giáp ra
cửa, tâm ý hoặc khiếp nhược, hoặc đi nửa đường
thối lui, hoặc chiến đấu đến chết, hoặc đắc
thắng mà về. Người Sa môn học Đạo (cũng vậy)
phải có ý chí kiên cường, dũng mãnh tiến lên,
không sợ cảnh tượng trước mắt (làm chướng ngại)
phá tan các loài ma để đắc Đạo thành đạo quả"
[8]
Pháp nhẫn:
nhẫn chịu sự áp bức của thiên nhiên như nóng,
lạnh, mưa nắng... còn gọi là phi tình nhẫn.
Sinh nhẫn và pháp nhẫn thuộc về đức tính kham
nhẫn, trong Thiền luận của Suzuki nói rằng:
“Kham nhẫn không nghĩa là chịu khuất phục trước
mọi khổ đau, những khổ đau ấy tác động ở bên
ngoài mang đến cho mình, nhưng nó có nghĩa là để
thực hành đức tính tinh tấn (siêng năng) trong
đời sống của Tánh không mà tất cả Kinh điển Đại
thừa xem như là cuộc sống của Bồ-tát”
(Bodhisattvacarya) [9]
Vô sinh pháp nhẫn:
nhẫn đạt đến cao độ trở thành đức tính tự nhiên,
ra vào nghịch cảnh và thuận cảnh một cách tự
tại.
Theo như Kinh-thập-địa, “đời sống vô công dụng
hạnh của Bồ tát phải trải qua giai đoạn thứ bảy
và tám (bát địa; bất
động địa) trong đời sống tâm linh mới
chứng được “Vô sanh pháp nhẫn”Anutpattikadhamma
Ksanti” [10]
3. Sự nguy hại không kham nhẫn:
Bồ tát tu tập hạnh nhẫn nhục là để đoạn trừ tâm
sân hận một trong ba căn bản phiền não luôn nhấn
chìm chúng sinh trong vòng sinh tử, trong chín
mươi tám kiết sử, thì tâm sân hận là loại kiết
sử nguy hiểm nhất, trong các tâm bệnh, nó là thứ
bệnh khó trị nhất. Kẻ sân nhuế thì không bao giờ
biết thiện, ác, cũng chẳng nghĩ đến tội phước,
chẳng biết tàm quý chỉ theo tâm sân hẫy hừng của
mình.
Trong tác phẩm
Bodhicaryāvatāra
của ngài Śātideva nói rằng không có ác nào sánh
kịp bằng sân si, và cũng không có gì cao quý
bằng đức tính kham nhẫn:
“Thiện hành tích lũy ngàn năm,
Một giây nóng giận tiêu tan tức thì.
Ác nào sánh kịp sân si
Hạnh tu nhẫn nhục không gì quý hơn” [11]
Và trong Tăng-chi-bộ-kinh đức Phật dạy: có năm
điều nguy hại cho những người không kham nhẫn:
- Quần chúng không ái mộ, không ưa thích.
- Có nhiều người hận thù.
- Nhiều người tránh né không muốn gặp.
- Lúc sắp chết tâm bị mê loạn
- Sau khi chết rơi vào Địa ngục.
[12]
Thông thường, sự xung đột thường xảy ra trong
mối quan hệ vợ chồng và bạn bè, nguyên nhân là
do đâu? Do chúng ta mọi người không biết tu nhẫn
nhục, ai cũng cố chấp để bảo vệ cái bản ngã tự
cao tự đại của mình, ai cũng cho rằng mình luôn
đúng và không chịu lắng nghe, nếu hai vợ chồng
luôn bảo vệ cái đúng riêng cho bản thân mình thì
chắc chắn sẽ tạo ra sự xung đột trong gia đình
và mất đi sự hạnh phúc.
4.
Sức mạnh của kham nhẫn
Trong Tăng-chi-bộ-kinh đức phật dạy về sức mạnh
của lòng kham nhẫn:
“ở
đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không nhiếc
mắng lại kẻ đã nhiếc mắng, không sân hận lại kẻ
đã sân hận, không gây lộn lại với kẻ đã gây lộn.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đạo hành kham nhẫn”
[13]
Dù cho gian khổ dặm đường
Sa môn kham nhẫn không vướng bụi trần
Dong ruổi góp nhặt cơn sân
Mang về vun bón chân tâm Bồ đề
Khi nào hoa quả sum sê
Hái tặng hạt giống người về ươm tâm
Trồng trên mảnh đất hồng trần
Nhổ cỏ phiền não, quả tầm Thánh nhân
(Trí Giải)
Có vị Sa môn hỏi Ðức Phật rằng: "Ðiều gì là mạnh
nhất? Ðiều gì là sáng nhất?" Ðức Phật dạy: "nhẫn
nhục là mạnh nhất vì không chứa ác tâm nên tăng
sự an ổn. Nhẫn nhục là không ác, tất được mọi
người tôn kính, tâm ô nhiễm đã được đoạn tận,
không còn dấu vết gọi là sáng nhất, nghĩa là tất
cả sự vật trong 10 phương, từ vô thỉ thuở chưa
có trời đất cho đến ngày nay không vật gì là
không thấy, không vật gì là không biết, không
vật gì là không nghe, đạt được Nhất thiết trí,
như vậy được gọi là sáng nhất". [14]
Và đức Phật đưa ra tám sức mạnh như sau:
-
Sức mạnh của trẻ thơ là tiếng khóc
-
Sức mạnh của đàn bà là phẫn nộ
-
Sức mạnh của người ăn trộm là vũ khí
-
Sức mạnh của vua chúa là quyền uy
-
Sức mạnh của kẻ ngu si là áp đảo
-
Sức mạnh của bậc hiền trí là cảm hóa
-
Sức mạnh của người đa văn là thẩm sát*
- Sức
mạnh của Sa môn là nhẫn nhục [15]
5.
Phương pháp thực hành nhẫn nhục ba-la-mật:
+ Dùng
trí tuệ quán chiếu
Bồ-tát
thường dùng trí tuệ vô lậu quán chiếu các pháp
vận hành theo nguyên lý Tam pháp ấn (vô thường,
khổ, vô ngã) vị ấy thấy vạn vật cùng vận hành
theo luật duyên sinh, tương quan theo thuyết
nhân quả, cho nên Bồ-tát vẫn thản nhiên để thành
tựu Bồ đề nguyện:
Vô thường lá rụng, ở ngoài sân
Nhặt lá vàng rơi, sạch cõi trần
Phiền não trong tâm, nhặt dứt bỏ
Tâm hồn thanh tịnh, khỏi trầm luân
(Trí Giải)
Khi có
người làm tổn thương đến Bồ-tát, vị Bồ-tát nghĩ
rằng:
“Người
hại ta hôm nay, đã có gieo ân oán trong kiếp
trước nào đó, vô tình hay cố ý ta đã tạo nhân
oan trái với người này, đây cũng là quả để trả
nhân quá khứ gieo trồng không tốt, đây cũng
chính là kết quả của hành động bất thiện trong
quá khứ, tại sao ta không trả nợ lại oán hờn
người ta”? [16]
“Muốn tu nhẫn nhục cho thành,
Kẻ thù hợp tác với mình mới xong
Vậy bao phước đức thành công,
Hãy nên phụng hiến kẻ từng hại ta”
“Nhờ một kẻ sân si tột độ,
Nhẫn nhục thành kiên cố nơi ta
Kẻ thù nhân tốt cho ta,
Nên cung dưỡng họ như là Pháp thân
[17]
Vì thế
“Bồ-tát nhẫn nhục ba-la-mật là thực hành tinh
tấn cả ngày đêm để thích nghi tất cả những nhu
cầu ứng xử không khởi tâm phân biệt” [18]
Mỗi
khi chúng ta gặp chướng duyên bị xung đột với
ai, tự quán chiếu lại chính bản thân mình, lúc
cơn giận nổi lên, chúng ta là phàm phu, không
thể nào đủ trí tuệ để thắng cái cơn giận, khi sự
việc qua rồi, mỗi đêm nằm ngủ hãy bỏ ra 10 phút
quán chiếu lại, suốt quá trình trong một ngày,
mình đã làm gì? Việc nào mình đã làm đúng? Việc
nào mình đã làm sai. Sau khi quán chiếu từng
việc như thế, việc nào mình làm đúng thì phát
triển trong tương lai, việc nào không đúng phải
kiểm điểm lại mình đã làm sai từ chỗ nào. Nếu
mình lỡ làm người bạn nào đó buồn tự mình phải
đi xin lỗi thì mọi việc sẽ bình yên, mỗi ngày sẽ
trở nên hoàn thiện
Vì kẻ
thù luôn giận dữ
Đã tạo
ra đau khổ như thế này
Ai
thắng sân hận mới hay
Sẽ tìm
thấy được những ngày hạnh phúc
[19]
Người
Phật tử thuần thành tu pháp nhẫn nhục và khoan
hồng, nếu thấy bất kỳ điều xấu của kẻ khác, hãy
cố gắng tìm cái tốt đẹp trong mỗi người và sự
việc để sống, vì vậy trong Kinh Trường-A-Hàm đức
Phật dạy rằng:
Mọi người có tranh tụng,
Ai không tranh là thắng
Con người có hai duyên,
Vì mình cũng vì người;
Thấy người không tranh tụng,
Lại cho là ngu đần.
Nếu người có sức lớn,
Nhịn được người không sức;
Sức này là đệ nhất,
Là tối thượng trong nhẫn
Ngu tự cho mình mạnh,
Sức này chẳng là sức;
Người mạnh nhẫn như pháp,
Sức này không ngăn được
[20]
+Dùng
từ bi tu nhẫn nhục:
Ngoài
phương pháp tu lục độ ra, Bồ-tát còn sử dụng
nhiều pháp môn tu khác như Tú-vô-lượng-tâm,
Tứ-nhiếp-pháp, Ngũ minh…Bồ-tát tu tập
Tứ-vô-lượng-tâm:
- Tâm
từ (metta) là lòng chân thật ước mong
chúng sinh sống hạnh phúc trong niềm vui chân
tịnh và thành tự Bồ đề.
- Bi (karuṇā)
là lòng rung động trước khổ đau của người khác,
tình thương vô hạn đối với chúng sinh, lòng
quyết tâm cứu mọi sinh linh thoát khỏi biển sinh
tử luân hồi
- Hỷ (muditā)
là lòng hoan hỷ trước mọi thành công và niệm vui
chung với người khác.
- Xả (upeksā)
là sự nhận thức đúng đắn, sự suy luận khách
quan, Bồ-tát không có luyến ái, cũng không ghét
bỏ, không oán giận những kẻ đã làm hại mình
Vì
thế, “những
ai tiêu diệt được tâm hận thù thì người ấy được
trí tuệ sáng suốt cho bản thân. Trong cuộc sống
bạn không có tình thương không thể nói chuyện
với người khác được” [21]
Nhẫn
nhục thể hiện tâm từ
Nhẫn
người một chút chữ tu hiển bày
Nhẫn
nhịn mới thấy điều hay
Nhẫn
bạn ta có những ngày cảm thông
(Trí Giải)
Trong
cuộc sống chúng ta cần tu tập nuôi dưỡng tâm từ
bi mới thực hành phương pháp tu nhẫn, vì lòng từ
bi sẽ giúp bạn sẽ gặt hái năm kết quả sau: “(1)
lòng từ bi từ bỏ gây tổn thương đến người khác,
(2) là hạt giống cho sự giác ngộ giải thoát, (3)
mang đến hạnh phúc đến cho tha nhân, và nhận khổ
đau về cho mình (tinh thần Bồ-tát đạo), (4) động
cơ thúc đẩy cho hạnh nguyện, (5) mang lại đặc
tính từ bi cho riêng mình.” [22]
Bồ-tát
luôn lấy từ bi và trí tuệ làm sự nghiệp độ sinh,
nhưng pháp tu nhẫn nhục rất quan trọng vì sợ gây
tổn hại đến chúng sinh, trong Kinh-phạm-vọng
nói: “tất cả người nam là cha ta, tất cả
người nữ mẹ ta, ta đời đời thọ sinh ở nơi họ”.
[23]
Khi
quán chiếu như thế tất cả kẻ oán người thân đều
bình đẳng, Bồ-tát không có tâm phân biệt những
ai có duyên đều được cứu khổ ban vui cho họ,
trong Kinh Đại- bảo-tích có nói:
“Nhẫn nhục gốc thập lực
Chư Phật
thần thông nguyện
Trí vô ngại đại bi
Đều lấy nhẫn làm gốc
Tứ đế, niệm, chánh cần
Căn, lực, giác đạo phần
Đều lấy nhẫn làm gốc
Người trí nên tu nhẫn
Phật tại ba la mật
Chuyển pháp luân vô thượng
Cũng lấy nhẫn làm gốc”
[24]
6.
Nhẫn nhục một trong sáu pháp tu Ba-la-mật
Chúng
ta là hàng phàm phu trên bước đường tu tập, thực
hành lục độ ba la mật bao gồm: Bố thí, trì giới,
tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định và trí tuệ
Bố thí
có hai, vật chất và tinh thần, Bố thí vật chất
được giàu sang, đó là làm việc lợi tha, bố thí
pháp dẫn dắt chúng sinh vào đạo tu hành quả được
trí tuệ.
Do trì
giới thoát khỏi ba đường ác, được sinh vào cõi
người hay cõi trời tôn quý. Do tu nhẫn nhục nên
ngăn được tâm nóng giận, thân tướng được trang
nghiêm, oai đức đầy đủ, không có hận thù ai nấy
đều quý mến và kính phục và dễ dàng cảm hóa
chúng sinh.
Do
tinh tấn giúp cho hành giả đoạn trừ tâm giải
đãi, để hoàn thành tâm nguyện về Bảo sở và hoằng
pháp độ sinh.
Do tu
thiền định tâm không còn não loạn, vọng tưởng,
xa lìa các vui ngũ dục của thế gian, thiền định
giúp tâm bình tránh xa mọi xung đột, gây tổn hại
đến người khác trong cuộc sống.
Do tu
thiền định vọng tưởng, phiền não chấm dứt, trí
tuệ bát nhã hiển bày để diệt trừ vô minh, mây ta
thì mặt trăng hiển bày chiếu sáng khắp thế gian.
7. Kết
luận:
Nói thì
dễ lắm, nhưng khi chúng ta thực hành tu nhẫn
nhục rất là khó, hằng ngày chúng ta luôn ôm chấp
cái ngã của mình, để rồi tham lam, ích kỷ, giận
hờn, ganh tỵ, lúc nào cũng cho mình hơn người,
những thứ này như đao
刀
(phiền não) nằm trong tâm
心.
Đây chính là nguyên nhân ngăn cản chúng ta
tu nhẫn nhục.
Từ
trước đến nay chúng ta sống sai lầm tạo biết bao
nhiêu thù hận, sân si,...ngày hôm nay cố gắng tu
thực hành thiền định, tụng kinh, niệm Phật để
tâm hồn thanh tịnh trí tuệ phát sinh, khi có trí
tuệ bát-nhã rồi thì chúng ta sẽ làm chủ
丶được
con đao trong tâm, nghĩa là không chấp
刃
(nhận) những thứ phiền não đó trong tâm, thì chỉ
còn lại một chân tâm thanh tịnh,
心
an lạc giải thoát. Tức là chữ nhẫn
忍-刃=心
(nhẫn không nhận phiền não = chân tâm), thì chân
tâm này là tâm Phật, tâm của Bồ-tát, tâm của bậc
Hiền trí.
THÍCH TRÍ GIẢI
----------------------------------------------------
Chú
thích:
[1] Thiều Chửu, Hán-Việt tự
điển,
[2] Xem
H. Dayal, The Bodhisattva Doctrine in Buddhist
Sanskrit Literature, Motilal Banarsidass
Publishers, 2004. P. 209 và xem: G. S. P. Misra,
Development of Buddhist Ethics, Mushiram
Manoharlal Publisher1984 pp.137-138.
[3]
Aṅguttāra Nikāya Tăng Chi Bộ Hòa thượng Thích
Minh Châu dịch Việt Chương II - Hai Pháp, XV.
Phẩm Nhập Ðịnh
[4] H.
Dayal, op.cit., 2004. P. 209
[5]
Narada, The Buddha and His Teachings, Buddhist
Missionary Society Malaysia, 1988 p. 599.
[6]
“(1) forbearance of pain (duḥkhādhivāsana-kṣānti)
(2)
forbearance of seeing the Doctrince (dharmaidhyāna-kṣānti)
(3)forbearance of injuries and insults (parāpakāra-marṣaṇo-kṣānti)”
xem G. S. P. Misra, Development of Buddhist
Ethics,Mushiram Manoharlal Publisher1984 p.138
[7]
無著忍辱鎧 安隱如法行
直進不退還 永之無憂處智士乘戰車 摧伏無智怨,
T2n99 trang 201a06-08 xem Tạp A-Hàm Thích Đức
Thắng, Việt dịch chương V. Đạo Phẩm phần Tương
ưng thánh đạo, Kinh Bà-la-môn.
[8]
Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Thích Viên Giác dịch
giảng nghĩa chuong 33.
[9]
D.T. Suzuki, Essays in Zen Buddhism second
Series, C. Humphreys (ed) Mushiram Manoharlal
Publisher 2008 p. 313.
[10]
D.T. Suzuki, op.cit., p. 335. Và xem:
Sangarakshita, A Survey of Buddhism Motilal
Bannarsidass Publishers 2006. P. 483
[11]
The Bodhicaryāvatāra of the Boddhist poest
Śātideva, Entering the Path of Enlightenment, M.
L. Matics (tr.) London Geoge Allen & Unwin
Publish 1970. P.173.
Việt dịch:Thích
Nữ Trí Hải.
[12]
Aṅguttāra NikāyaTăng Chi Bộ Hòa thượng Thích
Minh Châu dịch Việt Chương chương V phẩm không
kham nhẫn.
[13]
Tiếp theo
Chương IV - Bốn
Pháp (IV) (164) Kham Nhẫn
[14]
Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Thích Viên Giác dịch
Việt chương XV
[15]
Aṅguttāra Nikāya
III, Tăng Chi Bộ Kinh III,
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Chương Tám Pháp, phẩm Gia chủ, Kinh Sức Mạnh
(1), trang 587.
[16] Narada, The
Buddha and His Teachings, Buddhist Missionary
Society Malaysia, 1988 p. 600
[17]The
Bodhicaryāvatāra of the Boddhist poest Śātideva,
Entering the Path of Enlightenment, M. L. Matics
(tr.) London Geoge Allen & Unwin Publish 1970.
pp. 173-174.
Việt dịch:
Thích Nữ Trí Hải.
[18]
D.T. Suzuki, Studies in the Laṅkavatāra Sūtra,
Mushiram Manoharlal Publisher 2007, pp 366-367.
[19]The
Dalai Lama Healing, Anger The Power of Patience
from a Buddhist Perspective, G. T. Jinpa (Tr.)
Motilal Banarsidass Publisher 2007. P. 17 (Trí
Giải dịch ra thơ)
[20]衆人諍有訟 不報者爲勝,
夫人有二縁 爲己亦爲他
見無諍訟者 乃謂爲愚騃
若人有大力 能忍無力者
此力爲第一 於忍中最上
愚自謂有力 此力非爲力
如法忍力者 此力不可沮
xem
長 阿 含 經
T1n1
trang142a01-07 xem: Kinh
Trường A-Hàm phần Thích Phước Thắng Việt dịch IV
phẩm
10: Chiến Đấu
[21]
G.M.Nagao, “The Bodhisattva’s compassion
Described in the Mahāyāna-Sūtrālṁkāra”, J. Silk
(ed) Buddhist
Studies The Legacy of Gandjin M. Nagao Motilal
Banarsidass publishers 2008 p.18.
[22]
Tiếp theo trang 9.
[23]
Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới HT Thích Trí Quang
Việt dịch giới 20
[24]
Kinh Đại Bảo Tích, HT Thích Trí Tịnh Việt dịch
VI. Tr. 71.
* Thẩm
sát: nghĩa là bậc Thanh văn có trí tuệ, có chánh
kiến quán sát mọi sự việc một cách sâu sắc, thấu
rõ được bản chất của nó, không rơi vào tà kiến.
|