THUYẾT NHÂN QUẢ
Thích Thông Huệ

Thuyết nhân
quả của nhà Phật, nói đủ là nhân-duyên và quả là
một triết lý mang tính khoa học, quy luật tự
nhiên của vũ trụ, không mang tính chất hình thức
của sự thưởng phạt từ một đấng quyền năng nào.
Hiểu vậy, trong cuộc sống, chúng ta vui vẻ đón
nhận những khổ đau bất thường xảy đến với mình
như một kết quả do chính mình tạo nhân từ trước.
Từ đó suy nghiệm ra, lý nhân quả chi phối cả vũ
trụ nhân sinh. Nếu tin sâu nhân quả, chúng ta sẽ
được thăng hoa trên đời sống tâm linh, trở nên
hiền thiện đạo đức. Ngược lại, nếu không tin
nhân quả, cuộc sống chúng ta trở nên liều lĩnh
và càn bừa, bất chấp hậu quả.
Nói về lĩnh vực
khoa học, từ nhân đến quả là sự chuyển biến tự
nhiên. Đức Phật khám phá lý nhân quả cũng chính
là khám phá lý khoa học tự nhiên để áp dụng tu
hành, đạt đến lý tưởng siêu nhiên. Cho nên, Đạo
Phật vừa mang tính khoa học tự nhiên, vừa là
khoa học siêu nhiên như nhà bác học Einstein đã
nói: “Đạo
Phật là khoa học vừa mang tính tự nhiên vừa siêu
nhiên…”.
Vũ trụ nhân sinh
luôn chuyển biến vận hành trong mọi thời khắc.
Có thể nói, bản thân chúng ta, hoạt động tâm lý
và tất cả các pháp đang chuyển biến liên tục,
không dừng trụ dầu chỉ một sát-na. Quá khứ, hiện
tại và vị lai luôn chuyển biến theo chiều hướng
nhân quả. Nhân quả cũng tức là vô thường, là
chiều thời gian chuyển biến liên tục trong tự
thân của vật thể và trong hoạt động tâm lý. Vũ
trụ nhân sinh chuyển biến vận hành theo một quy
luật chung, đó là luật nhân quả. Nó vận hành
một cách âm thầm, chỉ những người nào đầy đủ
quán trí sẽ thấy rằng quy luật chi phối cả đời
sống vật chất, vật lý, sinh lý và tâm lý.
Đức Phật khám phá
lý nhân quả, vô thường, duyên sinh, cuối cùng
đạt đến chỗ siêu nhiên, tức phi thiện phi ác, là
cảnh giới của người giải thoát. Đến với Đạo Phật,
học hiểu đạo lý để chuyển hóa bản thân, bớt
những đắm nhiễm, đam mê vật chất. Khoa học ngày
càng tân tiến, khám phá những quy luật của tự
nhiên để tạo ra sản phẩm cung ứng cho lòng tham
vô bờ của con người. Còn Đạo Phật cũng khám phá
về nhân quả, vô thường, duyên sinh nhưng giúp
con người hiểu đạo lý, sống biết cách đối nhân
xử thế, làm đẹp bản thân, gia đình và xã hội.
Cho nên, đến với Đạo Phật là đến với đời sống
tâm linh. Khi chúng ta có chánh kiến về nhân quả,
chắc chắn đời sống chúng ta sẽ được thăng hoa.
Nghĩ, nói và làm có lợi cho mình, cho người,
không nghĩ điều quấy, nói lời xấu và làm việc ác.
Có thể nói,
phương pháp giáo dục phổ thông của Đạo Phật được
tìm thấy ở đạo lý nhân quả. Khi chúng ta làm một
việc sái quấy, có hại cho người khác, có khi
trốn được tòa án ở thế gian nhưng không trốn
chạy được chính lương tâm của mình. Mình chính
là gương nghiệp in bóng trước đài, là quan tòa
xử án công minh cho những hành vi tội lỗi nơi
bản thân. Giáo dục về nhân quả giúp mình sửa đổi
cái hư dở nơi lương tâm chúng ta chứ không phải
giúp mình trốn chạy trước pháp luật bên ngoài.
Nhân quả nhà Phật chú trọng đến động cơ luận hơn
là kết quả luận, phòng cháy chứ không chờ chữa
cháy. Giáo dục của Đạo Phật là giáo dục từ ban
đầu khi khởi tâm niệm bất thiện, trước khi xảy
ra điều tệ hại, khuyên mọi người ăn hiền ở lành,
hiểu biết nhân quả, tội phước, thì tự nhiên trở
thành người tốt. Vì vậy, người nào hiểu được
nhân quả thì đời sống người đó được bình yên.
Một người ác có thể trở thành người hiền, một
người xấu xa hèn hạ có thể trở thành một người
tốt. Từ đó từng bước cải hóa trở thành bậc Hiền,
bậc Thánh.
Đối với nhà Thiền,
khi niệm thiện niệm ác đều quét sạch, trực giác
phát sinh, con người sống trong trạng thái phi
thiện phi ác, nhưng việc thiện ác trên thế gian
vẫn quán xuyến, không lầm. Đó là người đang ở
trong trạng thái thiền định, có đời sống không
niệm khởi.
Đức Phật dạy,
trên cuộc đời này có bốn hạng người:
- Hạng người thứ
nhất, từ tối vào nơi tối.
- Hạng người thứ
hai, từ tối đi ra sáng.
- Hạng người thứ
ba, từ nơi sáng đi vào tối.
- Hạng người thứ
tư, từ nơi sáng đi đến sáng.
Thế nào gọi là từ
tối đến tối? Nghĩa là người đó sanh trong một
gia đình nghèo khổ, kém văn hóa, không có đạo
đức, lại không học hiểu đạo lý, với ý nghĩ ác,
miệng nói ác, thân làm ác, nên gọi là từ tối mà
đến tối.
Hạng người thứ
hai, từ tối đến sáng, nghĩa là người này sanh
trong một gia đình nghèo khổ, không có văn hóa,
không có đạo đức, nhưng tự thân người đó nỗ lực
tu hành, ý nghĩ điều lành, miệng nói điều lành,
thân làm việc lành, ngày càng thăng hoa trên đời
sống đạo đức, nên gọi là người từ tối mà đến
sáng.
Hạng người thứ ba,
từ nơi sáng đi vào tối, nghĩa là họ sanh trong
một gia đình khá giả, có văn hóa, có đạo đức,
nhưng bản thân lại nghĩ điều ác, miệng nói ác,
thân làm ác, không biết đến đạo lý, nên gọi là
từ sáng đi đến tối.
Hạng người thứ tư,
từ sáng đi đến sáng, nghĩa là người này được
sanh ra trong một gia đình khá giả, có đạo đức,
văn hóa, lại biết tu học, ý nghĩ điều lành,
miệng nói lành, thân làm lành. Đây là hạng người
hữu phước, gọi là từ sáng đến sáng.
Tất cả chúng ta
sống trong cuộc đời này đều do nghiệp quả biểu
hiện từ những kiếp trước. Mọi hậu quả chúng ta
đang mang đều chính do bản thân chúng ta tạo tác.
Các pháp chuyển biến từ trạng thái này sang
trạng thái khác, tâm lý chuyển biến từ trạng
thái này đến trạng thái khác, thì nghiệp cũng
chuyển biến từ trạng thái này đến trạng thái
khác, không có cái gì đứng yên một chỗ. Vì vậy,
nghiệp có thể chuyển, từ người ác có thể thành
người hiền, từ người hiền nếu không tu cũng có
thể trở thành người ác.
Nhân quả thể hiện
qua ba phạm trù thời gian, gọi là hiện báo, sanh
báo và hậu báo. Hiện báo là kết quả trổ ngay
trong hiện kiếp, có thể ngay tức khắc, hoặc một
ngày, một tháng, một năm, nhiều năm…trong một
đời này. Sanh báo là kết quả trổ ở kiếp sau khi
vừa thọ nhận một thân mới. Vì vậy, có những
người tạo việc lành bây giờ mà vẫn gặp điều
không tốt vì nhơn ác đã tạo từ kiếp trước. Hậu
báo là khi mình tạo việc lành hay việc dữ ở kiếp
này, quả không trổ liền ở kiếp này hay kiếp tiếp
theo mà nhiều kiếp về sau mới trổ, vì duyên chưa
đủ. Y cứ về lý nhân quả mà nói ba thời, ba khía
cạnh của nhân quả.
Phật tử thường
nói: “Phàm làm việc gì phải nghĩ đến kết quả
của nó”. Con người chúng ta làm việc đôi khi
do bản năng, tính háo thắng hoặc thiếu suy nghĩ
mà không lường trước những hậu quả của nó. Phần
lớn những sự thất bại trong công việc đều do
những yếu tố chủ quan trên mà ra. Vì vậy, áp
dụng đạo lý nhân quả vào các công việc xã hội,
chúng ta sẽ có được những thành công trong lao
động. Người hiểu luật nhân quả sẽ không cho phép
mình suy nghĩ, nói năng và làm việc xấu. Nếu mọi
người ai cũng được vậy thì đất nước sẽ văn minh,
xã hội có văn hoá, gia đình sẽ hạnh phúc. Vì thế,
giáo dục con người biết suy nghĩ tốt, làm việc
lành là một nhiệm vụ cao cả và thiết yếu.
Những ai có niềm
tin xác tín về nhân quả, thiện ác, dĩ nhiên khi
suy nghĩ, nói năng hay hành động gì đều phải có
thái độ thận trọng. Một tách nước trà lỡ đổ
xuống đất, muốn lấy lên lại không dễ. Một ý nghĩ,
lời nói, hành động xấu ác buông ra lỡ lầm, mang
lại một hậu quả ghê gớm khôn lường. Một bài kệ
nói về nhân quả như sau:
“Dục tri tiền thế
nhân
Kim sanh thọ giả
thị
Dục tri lai thế
quả
Kim sanh tác giả
thị.”
Tạm dịch:
“Muốn biết nhân
đời trước
Xem thọ nhận đời
này
Muốn biết quả đời
sau
Xem tạo tác đời
này.”
Cái thọ
dụng trong cuộc sống này, chánh báo và y báo của
mình, xem thử mình mang thân như thế nào, con
người có hạnh phúc hay không, nghèo hay giàu,
ngu hay trí… cứ nghiệm lại mà biết rằng nhân đời
trước mình tạo là nhân gì. Nho giáo có câu:“Nhất
ẩm nhất trác, giai do tiền định”. Một cái ăn,
một cái uống, một cái mặc cũng đều do tạo nhơn
lành hay dữ ở kiếp trước. Muốn biết kết quả kiếp
sau ra sao, nơi kiếp này hãy suy xét sự tạo tác
của thân - khẩu - ý của mình ra sao. Nếu chúng
ta có chánh kiến về nhân quả sẽ có thể biết được
quá khứ, hiện tại, vị lai của mình và người như
thế nào, từ đó quyết chí tiến tu để mỗi ngày
được thăng hoa hơn trên lộ trình tu tập.
Qua thuyết nhân
quả của Đạo Phật cho chúng ta thấy có sự tái
sanh, luân hồi, có quả báo khổ vui trong các
kiếp sống.
Các vị Đạt Lai
Lạt Ma bên Tây Tạng đã nói đến thuyết tái sinh,
đi tìm hậu thân và các cõi sống. Thân ngũ uẩn
của chúng ta đều do nghiệp lực mỗi người vẽ ra
mà có sự sai biệt về hình dáng, tính cách, hoàn
cảnh. Cho nên, mình là Thượng đế của chính mình,
tự tạo ra hoàn cảnh chánh báo và y báo cho chính
mình. Người hiểu đạo lý, niềm tin này làm cho họ
tự ý thức dè dặt, thận trọng trong mọi ý nghĩ,
lời nói, việc làm của mình, chuyên tu ba nghiệp
cho được thanh tịnh, ngõ hầu chuyển hóa bản thân,
gia đình và xã hội đều dứt ác hành thiện.
Là người
Phật tử chân chính, phải có sự tin tưởng tuyệt
đối về lý nhân quả vì là một lẽ thật. Chúng ta
có thể kiểm nghiệm ở nơi hiện tượng hữu sanh hữu
diệt theo chiều nhân quả, từ đó áp dụng tu tập
cho bản thân mình và mọi người, chuyển đổi những
hư dở, xấu ác nơi mình, góp phần vào đời sống
gia đình và xã hội được bình an, phúc lạc. Tin
nhân quả, chúng ta tự ý thức dè dặt từng bước đi
trong cuộc sống này, chính bản thân mình sống có
ý nghĩa. Và, chúng ta đem cái ý nghĩa đó làm
những việc hữu ích cho mọi người. Giáo dục con
người biết tin nhân quả thì bản thân họ được
an vui, gia đình họ được hạnh phúc và xã hội
được ổn định trật tự, làm nền tảng xây dựng đất
nước giàu mạnh, văn minh.
Thiền Viện Trúc Lâm Viên Ngộ, Phan Rang - Ninh
Thuận
Thích Thông Huệ
* theo
Hoa Linh Thoại


|