NHỮNG NGÀY Ở
‘NURSING HOME’
Nguyên Thúy

Sau ba tháng du lịch ở Mỹ về, những
người quen hỏi tôi điều gì làm tôi tâm đắc nhất.
Không chút do dự hay suy nghĩ, tôi trả lời: “…đó
là cái Nursing Home (viện dưỡng lão)”. Họ ngạc nhiên khi thấy tôi
không đề cập đến những địa danh nổi tiếng: như
Las Vegas, Hollywood, Disney-land, những tòa nhà
chọc trời cao nhất thế giới hoặc những cái Mall
rộng lớn đi cả ngày chưa hết, những viện bảo
tàng, những đại lộ thênh thang, chồng chéo lên
nhau như những sợi mì… Tôi đã hưởng một chuỗi
ngày dài thật tuyệt vời,với biết bao điều mới lạ,
hiện đại, tối tân mà từ trước đến giờ tôi chưa
hình dung hay tưởng tượng ra nổi. Thế mà khi trở
về Việt Nam, tâm trí tôi chỉ còn lắng đọng một
điều làm tôi ưu tư, trăn trở, ray rức: - Cái
‘Nursing Home’ mà mẹ chồng tôi đang sống.
Chặng cuối cùng
của chuyến du lịch, chúng tôi đã ở Los Angeles
mười lăm ngày để thăm viếng mẹ chồng. Hằng ngày,
chúng tôi phải chuyển hai chuyến xe bus, đi qua
Garden Grove - Westminster, Bolsa và bao nhiêu
đại lộ nữa mà tôi không nhớ hết tên, đưa chúng
tôi gần trạm cuối cùng của lộ trình. Chúng tôi
phải đi bộ khoảng năm trăm mét để đến khu dưỡng
lão của một tổ chức tư nhân. Đó là một khoảng
đất rộng, nằm khuất sau đại lộ Hungtington hai
con đường, cách bờ biển Hungtington chưa tới hai
cây số. Một nơi yên tĩnh,vắng vẻ, với hai hàng
cây sồi đưa vào cái ngõ cụt. Gồm ba dãy nhà trệt,
ghép thành hình chữ U, nó êm dịu với
những cánh cửa sơn màu xanh da trời, nổi bật màu
sơn trắng của những bức tường, với những khung
kính to trong suốt, lịch sự và trang nhã, bằng
những tấm màn voan trắng che rũ. Những khóm hoa
hồng, cẩm tú cầu được trồng một cách mỹ thuật
trước hàng hiên, dưới cửa sổ, tạo cảm giác vui
tươi, hưng phấn khi ngồi trên bộ bàn ghế để phơi
nắng hoặc hóng mát duới tàng cây.
Khi vợ chồng tôi
đến nơi, kim đồng hồ của phòng trực chỉ 8 giờ 30
phút, bác sĩ và y tá đang đi từng phòng kiểm tra
sức khoẻ cho các cụ già. Mẹ chồng tôi tươm tất,
sạch sẽ trong bộ quần áo mới thay, nét mặt tươi
tỉnh. Họ đã làm vệ sinh cá nhân cho bà từ sáng
sớm, trước khi dùng điểm tâm. Mâm thức ăn sáng
chưa dọn, còn để trên bàn. Cô y tá người Việt
vào kiểm tra huyết áp, đo lượng đường trong máu,
rồi rót nuớc, bỏ thuốc vào miệng bà, ân cần thăm
hỏi.
Mẹ chồng tôi
không còn nhiều trí nhớ để trò chuyện. Bà hờ
hững trả lời những câu hỏi không chính xác, mạch
lạc. Những ngày đằng đẳng ở đây đã làm bà trở
nên câm lặng. Trái ngược với thuở sinh thời, bà
nổi tiếng là người nói nhiều. Ánh mắt vô hồn,
lúc nào cũng nhìn lên trần nhà và tách biệt với
cảnh vật chung quanh. Thời gian đầu cách đây
mười bảy năm, cô em chồng đã bảo lãnh bà sang Mỹ.
Bà đã sống một mình trong một căn phòng mà chính
phủ ưu tiên cho người già thuê. Ban ngày bà ở đó,
chiều đến con cháu thay phiên đón về nhà ăn, ngủ,
tắm rửa. Sáng hôm sau lại tiếp tục, như một em
bé đi nhà trẻ, đều đặn từ tháng nọ sang năm kia.
Gần đây, do tuổi
tác quá cao (93 tuổi), bà bị té gãy xương đùi,
không thể đi lại được,và không thể tự lo vệ sinh
cá nhân, nên cô em chồng sau khi bàn tính với
các anh chị đã quyết định đưa bà vào đây. Anh em
chúng tôi như bị dồn vào ngõ cụt, tiến thoái đều
lưỡng nan. Khó tìm một giải pháp vẹn toàn, con
đường nào cũng trắc trở, chông gai. Phải chăng
là do số phận, do định mệnh hay do nghiệp lực?
Cuối cùng phải tự an ủi và chấp nhận, đó là quy
luật đời thường mà xã hội đặt ra để giải quyết.
Lúc chưa sang Mỹ,
tôi rất có thành kiến không mấy tốt đẹp và phản
đối việc đem gửi cha mẹ vào viện dưỡng lão. Giờ
đây tôi mới biết rằng tôi hiểu chưa thấu. Luật
pháp ở đây không cho người già yếu và trẻ con ở
nhà
một mình. Thuê người giúp việc thì không có,
hoặc rất là đắc đỏ. Con người ở đây chịu rất
nhiều áp lực về công việc làm ăn, tiền bạc. Để
đáp ứng nhu cầu vật chất gọi là thiên đường của
sự hưởng thụ, người ta phải đánh đổi bằng những
món nợ khổng lồ, mà người ta truyền miệng nhau:
"không mắc nợ không phải là dân Mỹ". Đánh đổi sự
mất mát tình cảm, đổ vỡ hạnh phúc gia đình, có
khi luôn cả sinh mạng.
Những tấm gương
hiếu thảo của thầy Mẫn Tử Khiên trong Nhị Thập
Tứ Hiếu: "thờ cha sớm viếng khuya hầu" sẽ không
có chỗ đứng trong thời khóa biểu của các người
con ở thời hiện đại này. Chỉ có những viện dưỡng
lão mới đáp ứng những lỗ hổng mà người con không
thể lấp đầy được. Ở đây, chỉ cần một cái nhấn
chuông là có bác sĩ, y tá, điều dưỡng, sẳn sàng
đáp ứng, giải quyết điều mình yêu cầu. Mẹ chồng
tôi kêu đau bụng, là có ngay hai cô điều dưỡng
người Mễ cao to, khỏe mạnh bồng bà đặt lên cái
ghế dành cho người khuyết tật, đẩy vào nhà vệ
sinh. Tiểu tiện thì tự do thải vào tả lót, đến
giờ họ đi thay.
10 giờ sáng và
3giờ 30 phút chiều, các cụ được tập trung ở
phòng giải trí. Những chiếc xe lăn được đẩy tới,
xếp thứ tự quanh chiếc bàn dài. Họ tham gia
những trò chơi đố chữ, chuyền banh, những trò
chơi vận động tay chân, nghe nhạc, xem tivi, và
kết thúc bằng bánh ngọt hay trái cây với nước
giải khát.
11 giờ 30 và 5
giờ chiều các cụ tập trung ở phòng ăn. Những mâm
thức ăn dư thừa năng lượng. Ai không thích ngồi
tại đây, thì yêu cầu mang vào phòng. Những chiếc
xe lăn được đẩy tới, xếp quanh cái bàn tròn. Bàn
này có tám người, ba người đàn ông và năm người
đàn bà. Chỉ có mẹ chồng tôi là người Việt. Ông
Mỹ đen trên bốn mươi tuổi, bị tai biến mạch máu
não, tay không cử động được, nên người điều
dưỡng phải đút cho ông và hai bà kế bên. Tôi đặc
biệt chú ý đến một bà Mỹ trắng, tuổi trên độ "thất
thập cổ lai hy", nét mặt thanh tú, dáng người
thon nhỏ, mãnh mai. Thời con gái chắc bà được
xếp vào hàng mỹ nhân. Đôi mắt to và buồn… đôi
mắt như biết nói, khi đối diện với một người nào.
Ngày đầu tiên, bà nhìn tôi cười và chỉ mẹ chồng
tôi hỏi "tôi là gì". Tôi trả lời là “con dâu”.
Câu chuyện giữa tôi và bà chỉ dừng lại ở những
câu xã giao thông thường. Vốn liếng Anh ngữ
nghèo nàn của tôi, không cho phép tôi tìm hiểu
sâu hơn nữa. Hoặc nếu bà có tâm sự, tôi cũng
không thể hiểu hết được. Một bữa, tôi thấy bà
không chịu ăn, bà ngồi trầm ngâm, rồi những giọt
nước mắt liên tục tuôn trào trên gò má xanh xao…
Bà khóc nức nở. Những người bạn cùng bàn an ủi,
làm bà càng khóc to hơn. Tôi nắm tay bà, lau
nước mắt và đút cho bà ăn. Bà vẫn khóc như một
đứa trẻ. Liên tiếp ba ngày như vậy. Tôi được
biết qua cô y tá người Việt, là lâu rồi con bà
không đến thăm. Hình ảnh tôi đút cơm cho mẹ
chồng, làm bà nhớ con và chạnh lòng buồn tủi.
Những ngày sau cùng, tôi không dám đưa mẹ chồng
ra phòng ăn. Tôi không dám nhìn bà khóc thêm nữa.
Lòng tôi cũng xao động, nước mắt tôi cũng chảy
dài. Bởi tôi là người rất nhạy cảm và dễ xúc
động. Tôi rón rén ra nhìn. Bà ngồi đó, đôi mắt
xa xăm, tư lự. Chắc chắn bà đang nghĩ về con bà.
Biết bao câu hỏi, đang quay cuồng trong tâm trí:
sao lâu rồi con không đến, bận rộn hay có sự bất
trắc gì đã xảy ra? Bà vừa lo, vừa buồn, rồi giận,
rồi
thương, nhớ, làm bà không tự chủ, đè nén những
cảm xúc của mình. Chắc chắn, không biết bao
nhiêu lần, cuốn phim dĩ vãng của một thời vàng
son đã lần lượt, thường xuyên quay lại trong ký
ức của bà. Bà nhớ đến người chồng quá cố, nhớ
những đứa con bà hết lòng thương yêu, nhớ những
ngày đầm ấm hạnh phúc, nhớ những lo toan, thăng
trầm trong cuộc sống. Giờ này con bà có biết
bà đang mõi mòn trông đợi hay không?
Ở đây, cái viện
dưỡng lão này chỉ giúp người già cải thiện, bù
đắp những thiếu sót về vật chất, mà con cái
không thể hoàn thiện được. Bác sĩ, y tá, thức ăn,
thuốc men, máy móc, chỉ giúp họ hết đau đớn về
thể xác. Cái tensionmètre chỉ đo được chỉ số
huyết áp giao động trong ngày, các máy móc kỹ
thuật cao phát hiện những tổn thương sâu trong
cơ thể… Tất cả những thứ đó không giải quyết,
chữa trị được những đau đớn tinh thần, những
giao động tâm lý, những khắc khoải triền miên
của lòng khát khao yêu thương. Đó là căn bệnh
trầm kha mà không máy móc, bác sĩ, y tá nào chữa
trị được. Đó là thứ thức ăn linh nghiệm và hiệu
quả mà con người đã mỏi mòn tìm kiếm và chưa bao
giờ thấy no đủ.
Mẹ chồng tôi có
sáu người con: bốn trai hai gái. Một mình bà
nuôi nấng sáu người con khôn lớn trưởng thành.
Giờ đây khi tuổi tác chồng chất, sáu người con
không chăm sóc được một mẹ già. Dù rất thương mẹ,
dù biết công đức sinh thành dưỡng dục, sâu rộng
như trời biển; nhưng không thể nào làm tròn bổn
phận, bởi những tất bật, căng thẳng và đa đoan
của cuộc sống.
Bên Mỹ có ngày
‘Mother's day’ và ‘Father's day’. Việt Nam có
ngày Vu Lan - Bông hồng cài áo. Ai còn cha mẹ
thì cài một đoá hoa cẩm chướng đỏ hay hoa hồng
đỏ. Ai mất mẹ thì cái một bông cẩm chướng trắng
hay hoa hồng trắng. Một hình ảnh biểu trưng,
chọn một ngày để nhắc nhở những ai diễm phúc còn
có mẹ, để mà yêu thương và trân quý. Với tôi một
ngày trong một năm như thế là quá ít ỏi. Chẳng
khác nào hạt muối trong đại dương. Mỗi ngày, ít
lắm mỗi tuần, tệ lắm mỗi tháng, ta phải tự cài
lên áo một hoa hồng đỏ, qua một món quà mà mẹ
yêu thích: cái bánh, củ khoai, trái chuối, ly
sữa… một lời thăm hỏi ân cần, một câu nói ngọt
ngào, một ánh mắt ấm áp chan chứa yêu thương,
một cử chỉ âu yếm, quan tâm, lo lắng. Đó là đóa
hoa hồng đỏ, đã tự nở trên áo của ta, không đợi
đến ngày Vu Lan được mọi người nhắc nhở. Em
chồng tôi, đều đặn mỗi ngày ghé thăm mẹ,với
những món quà mà bà mẹ Việt Nam yêu thích. Mỗi
tuần cô cài đủ bảy hoa hồng đỏ thắm. Bảy ngày
hạnh phúc và luôn thầm cảm ơn cái đặc ân còn có
mẹ để mà tự nguyện và hiến dâng. Thế mà mẹ chồng
tôi vẫn không chịu đựng được sự trống vắng, cô
đơn khi không có sự đồng cảm giữa những người xa
lạ và ngôn ngữ bất đồng. Lúc nào bà cũng muốn về
nhà, khẩn khoản muốn về nhà.
Cùng phòng với mẹ
chồng tôi là một bà cụ người Bắc 1954, mới đưa
vào ba hôm. Người con gái lấy chồng lính Mỹ, đã
bảo lãnh bà sang đây mười mấy năm về trước. Bà
chỉ còn da bọc xương, lưng còng gần 90 độ. Bà
nằm co quắp như con tôm luộc chín. Bà không còn
đủ sức để ngồi lâu. Bà chỉ ăn cháo và uống sữa.
Buổi trưa, người con gái đem cháo đến đút cho bà,
phát hiện đầu bà không ngẩng lên được. Cô ta hốt
hoảng la toáng lên: "tại sao bà không ngẩng đầu
lên được, tụi nó đã làm gì bà? Có phải tụi nó
giật đầu, giật tóc bà không? Để tôi đi hỏi cho
ra lẽ?".Bà không còn hơi sức mà trả lời. Từ khi
bà đến nằm trên cái giường này, tôi
chưa nghe bà nói gì ngoài tiếng thều thào yếu
ớt: "…cho con về nhà, con muốn về nhà". Bà nhìn
tôi cầu cứu, tôi nắm bàn tay khô đét, lạnh ngắt
và hỏi bà cần gì. Bà chỉ nói một câu đó, lập đi,
lập lại không biết bao nhiêu lần. Bà tới đây từ
một cái viện dưỡng lão khác, mà cô con gái chê
là tệ quá. Cô ta sốt ruột vì thấy mẹ mình suy
sụp nhanh chóng. Cô phản ứng lồng lộn. Lòng
thương mẹ mù quáng làm cô thốt ra những câu nói
không tế nhị. Bác sĩ và xe cấp cứu đến, người ta
đưa bà vào bệnh viện lớn để rà soát lại cơ thể.
Căn phòng chỉ còn lại một mình mẹ chồng tôi.
Sớm mai thức giấc,
nhìn quanh một mình. . .
. . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. .
Sáng khuya trưa
tối, nhìn quanh một mình
. . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. .
Đời mong manh quá,
kể chi chuyện mình
. . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. .
Đó là những câu
hát não nùng, thật chua chát và đắng cay mà nhạc
sĩ Lam Phương đã viết cho số phận của mình vào
cuối đời, với những dư chứng của bệnh tai biến
mạch máu não.
Chúng tôi về lại
Việt Nam, với linh tính biết đây là lần cuối
cùng chúng tôi còn thấy mẹ. Buổi chia tay đẫm
nước mắt và đau buồn trĩu nặng tâm tư. Mười ngày
sau, vào một đêm cuối mùa hạ 2006, mẹ chồng tôi
đã vĩnh viễn không mở mắt nhìn cái trần nhà, mà
mấy tháng ròng rã bà ít khi rời nó. Bà ra đi
trong sự an giấc của mọi người, âm thầm lặng lẽ
không một ai hay biết. Còn biết bao bà mẹ khác
cũng đã và sẽ ra đi trong cô đơn tẻ lạnh như thế
này.
Tất cả
con cháu ở rải rác ở nhiều tiểu bang đau đớn khi
nhận được tin khủng khiếp này. Cô em chồng tức
tưởi vì bà không đợi cô. Chỉ vài tháng nữa cô sẽ
nghỉ hưu non, sẽ đem mẹ về nhà phụng dưỡng. Cô
đã không điều đình được với Thần Chết. Mọi người
câm lặng chịu đựng. Trong thâm tâm ai cũng trăn
trở, ray rứt, xót xa vì biết bao điều chưa thực
hiện: "…địa ngục chứa đầy những dự định tốt
đẹp". Làm sao cân bằng lại tâm lý, tìm lại an
bình, một khi lòng cứ khắc khoải bỡi những dằn
vặt, ăn năn.
Thời gian
trôi theo sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật.
Người ta đã chế tạo ra nhiều thứ… kể cả người
máy, nhưng có một thứ họ không chế tạo được là
trái tim người mẹ. Con người vẫn ăn ngủ, làm
việc, theo cái đà tiến hóa. Không biết đủ, không
vừa lòng, họ có thể bị cơn lốc cuốn trôi theo
cái thảm họa đua đòi vật chất. Nếu không cảnh
giác không dừng lại đúng lúc, họ sẽ là một thứ
nô lệ mà suốt cuộc đời họ không hề biết hạnh
phúc đích thực là gì. Quên bản thân, quên quyến
thuộc, quên luôn cả tử thần đang rình rập, chờ
đợi, bất cứ lúc nào cũng có thể cướp đi sinh
mạng vốn đã mong manh trong từng hơi thở.
Tại ai? Tại con
người? Tại xã hội hay tại ta sinh lầm thế kỷ?
Nguyên Thúy


|