|
Dharamsala - Phố
Núi Đầy Sương
Kim Yến - Chơn Định Hòa

Lời người
viết: Từ ngày 24/6/2011 đến ngày 4/7/2011
chúng tôi có duyên lành được tham dự Pháp hội
dành cho Tăng Ni và Phật tử Việt Nam lần đầu
tiên được tổ chức tại Dharamsala - Ấn Độ, trú xứ
của Đức Đạt Lai Lạt Ma XIV, nhà lãnh đạo tinh
thần của nhân dân Tây Tạng, biểu tượng sống của
đất nước, văn hóa và Phật giáo Tây Tạng. Ký sự
này thay cho lời tri ân vì một đại nhân duyên
thù thắng!
Nhân duyên quá
khứ
Mười hai năm về
trước, khi mẹ tôi qua đời, tôi được một người
bạn tặng cho quyển sách “Sống Hạnh Phúc - Chết
Bình An” (the joy of living and dying in peace)
do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, nhà lãnh đạo tinh
thần của nhân dân Tây Tạng viết. Cuốn sách đã an
ủi tôi rất nhiều.
Tôi cũng đọc đâu
đó những tư liệu về cuộc đời của Ngài, Ngài có
kể khi mẹ Ngài mất, Ngài đã tụng hàng trăm ngàn
lần câu thần chú “Om Mani Padme Hum”. Theo Phật
giáo Tây Tạng, câu thần chú này, còn gọi là “lục
tự đại minh chân ngôn”, tiêu biểu cho Tâm từ bi
và ân sủng của các chư Phật, Bồ Tát đặc biệt là
Bồ Tát Quán Thế Âm, vị Phật của lòng bi mẫn, bảo
hộ cho đất nước và nhân dân Tây Tạng. Người Tây
Tạng xem Đức Đạt Lai Lạt Ma là hoá thân của Bồ
Tát Quán Thế Âm thị hiện trong cuộc đời này. Khi
tụng thần chú này sẽ tịnh hóa được nghiệp chướng
nhiều đời nhiều kiếp, người sống được bình an,
phúc lạc, người chết được siêu thoát về cõi an
lành.
Khi tôi mất mẹ,
“tôi như mất cả bầu trời”, lòng hoang mang không
biết mẹ tôi chết rồi bà sẽ đi đâu. Trong vũ trụ
bao la có đến tam thiên thế giới mẹ tôi ở cõi
nào, có an lành không, có hạnh phúc không? Trong
tôi thôi thúc một lời giải đáp và muốn tự mình
tìm thấy lời giải đáp đó, dựa trên một niềm tin
có cơ sở chứng nghiệm bằng chính bản thân tôi.
Tôi quyết định đi
Tây Tạng, nơi mọi tín ngưỡng gần như tuyệt đối
của dân tộc này là đạo Phật. Đối với sự luân hồi
và tái sinh của con người họ không chỉ giải
thích trên lý thuyết mà còn được thể hiện và
chứng nghiệm bằng người thật việc thật. Đó là sự
hóa thân của các vị Panchen Lama (Ban Thiền Lạt
Ma) và Dalai Lama (tạm dịch Đại dương của trí
tuệ).
Chỉ 5 tháng sau
ngày mẹ tôi mất, tháng 6 năm 1999, tôi đặt chân
đến Lhasa thủ đô của xứ sở nằm chót vót trong
mây, được gọi là “nóc nhà của thế giới”, một
trong thánh địa của Phật giáo Đại thừa, mảnh đất
tĩnh lặng và tinh khiết, nơi giao hòa tuyệt diệu
giữa Trí tuệ và lòng Từ bi.

Quả thật Tây Tạng
là đất nước của các thần chú linh thiêng, người
ta nói trẻ con nước Anh biết bơi trước khi biết
đi thì trẻ con Tây Tạng biết đọc thần chú trước
khi biết nói. Đọc thần chú “Om Mani Peme Hung” (theo
âm Tạng) và quay bánh xe pháp luân là nghi thức
“tịnh nghiệp” của người Tây Tạng và hình ảnh này
cũng thấy nhiều ở các tu viện, đền đài ở
Dharamsala - Ấn Độ.
Trong thời gian ở
Tây Tạng, chúng tôi có đến thành phố Shigatze,
thủ phủ của tỉnh Tsang, lãnh địa truyền thống
của các Panchen Lama (Ban Thiền Lạt ma), là các
vị Thầy, giáo thọ của các Dalai Lama. Chúng tôi
đi theo con đường thông thương với Ấn Độ mở từ
thế kỷ thứ 5, vượt qua 2 ngọn đèo Kambala và
Karola cao hơn 5000 mét, ngắm nhìn con sông
Yarlung Tsanpo là con sông cao nhất thế giới,
như một dãy lụa bạc ở phía Bắc và màu nước trong
xanh như ngọc bích của hồ Yamdrok còn gọi là hồ
Chư Thiên, theo truyền thuyết là một trong ba hồ
linh thiêng ở Tây Tạng.
Con đường thật
cheo leo hiểm trở, không khí loãng, áp suất thấp
làm ai cũng mệt mỏi, phải thở bằng bình oxy nhỏ
mang theo đề phòng có thể bị chóng mặt, ngất xỉu
bất ngờ. Tuy nhiên, trước thiên nhiên hùng vĩ,
tuyệt đẹp và biết khó có thể nhìn thấy lần thứ
hai trong đời, chúng tôi lục đục xuống xe, tản
bộ trên con đường đèo dốc đá cheo leo, cảm nhận
sự bình an thanh khiết đến vô cùng.
Tôi nhặt một hòn
đá màu đen, trơn láng nằm trên bãi cát sỏi khô
cằn, cạnh hai bông hoa màu vàng hiếm hoi, làm
vật kỷ niệm về một chuyến đi thật bất ngờ và kỳ
diệu.
Thật vậy, chuyến
đi đã làm thay đổi cuộc đời tôi, đưa tôi trở về
truyền thống tâm linh của gia đình là đạo Phật.
Tôi như một đứa trẻ ham chơi, lạc lối nay tìm
được con đường trở về nhà, ngôi nhà tâm linh của
chính mình, tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời mình
qua những lời dạy của đức Phật, của Ngài Tenzin
Gyatso Dalai Lama.
“We are visitors
on this planet. We are here for ninety or one
hundred years at the very most. During that
period, we must try to do something good,
something useful,with our lives. If you
contribute to other’s happiness, you will find
the true goal, the true meaning of life.” (Chúng
ta là những lữ khách trên hành tinh này. Chúng
ta ở đây chín mươi năm, nhiều nhất một trăm năm.
Trong khoảng thời gian ấy, chúng ta phải cố gắng
thực hiện điều gì đó tốt đẹp, lợi ích cho chính
cuộc sống chúng ta. Và nếu các bạn góp phần mang
lại hạnh phúc cho người khác, các bạn sẽ tìm
thấy mục tiêu đích thực, ý nghĩa đích thực của
cuộc đời), lời Đức Dalai Lama XIV.

Tôi đã mang hòn
đá “hữu duyên” từ Tây Tạng về Việt Nam và gìn
giữ nó suốt 12 năm qua, tâm nguyện một ngày nào
đó, gặp được Ngài Đạt Lai Lạt Ma, tôi sẽ cúng
dường Ngài kỷ vật đơn sơ đến từ quê hương huyết
thống của Ngài. Đối với tôi ở một ý nghĩa tâm
linh nào đó, hòn đá không phải là vật vô tri vô
giác:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bổng hóa tâm
hồn” (thơ Chế Lan Viên)
Ước
nguyện của tôi đã thành hiện thực. Tôi đã được
gặp Ngài Đạt Lai Lạt Ma bằng xương bằng thịt.
Dharamsala thành phố miền cực Bắc Ấn Độ, trú xứ
của Ngài lần đầu tiên chào đón Tăng Ni và Phật
tử Việt Nam tham dự Pháp Hội do Ngài chủ lễ.
Thật
là một đại nhân duyên thù thắng chưa từng có!
Dharamsala - phố núi đầy sương
Dharamsala - thành phố nằm ở miền Đông bắc Ấn
Độ, thuộc tiểu bang Himachal Pradesh. Tên
Dharamsala có nghĩa là “nơi nghỉ" (rest house)
cho những người hành hương tâm linh.
Sau
biến cố năm 1959, Tây Tạng bị Trung Quốc xâm
chiếm hoàn toàn.
Dharamsala là món
quà mà vị Thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ
Jawaharlal Nehru đã tặng cho vị lãnh đạo tinh
thần của nhân dân Tây Tạng, khi Ngài và hơn 80
ngàn người dân Tây Tạng rời bỏ quê hương.
Nằm trong thung
lũng Kangra thuộc ngọn núi Dhanladha của dãy Hy
Mã Lạp Sơn có độ cao gần 1,800 mét, Dharamsala
được chia làm hai khu vực Kotwali Bazar và các
vùng phụ cận gọi là Hạ Dharamsala, khu vực thứ
hai là thị trấn Mcleod Ganj gọi là Thượng
Dharamsala, nơi hầu hết là người Tây Tạng sinh
sống, dân số khoảng trên 8.000 người.
Dharamsala được
bao bọc bởi những rừng thông và tùng Hy Mã Lạp
Sơn, mọc cao vút, mạnh mẽ, có nhiều thắng cảnh
thiên nhiên như hồ, thác, thích hợp cho người
thích leo núi, đi bộ trong rừng, và càng nổi
tiếng, tấp nập hơn vào mùa hè, vì đây là nơi
“trốn” nóng tuyệt vời.
Khi chiếc phi cơ
ATR của hãng hàng không Kingfisher đưa đoàn đáp
xuống phi trường Kangra, một cơn mưa rào đã chào
đón chúng tôi, báo hiệu mùa hè sắp đi qua và mùa
mưa ở Dharasalam bắt đầu. Chiếc khăn trắng Kata
chúc phúc từ các vị Lạt Ma và Ban tổ chức choàng
trên vai mọi người mang lại cảm giác thân thiện,
tươi mát đến ngỡ ngàng: “ Ôi, Dharamsala đây rồi
sao!”.
Từng chiếc xe
taxi nội địa đưa hành khách và hành lý vượt qua
những con đường đèo hẹp, thật hẹp với những khúc
quanh “gắt” đến nỗi người cứ nghiêng ngã theo
từng đoạn đường trong khi các bác lái xe thì
tỉnh bơ.

Đến Ấn Độ muốn
hiểu về người Ấn sống và làm việc như thế nào,
phải hiểu ba tính cách đặc trưng của họ: chịu
đựng, suy tư và chờ đợi.
Thật vậy, chúng
tôi có kinh nghiệm ngồi chờ các nhân viên khách
sạn 4 sao La Suite ở New Delhi loay hoay tính
toán, ghi chép, phát hành chỉ đúng có mấy cái
hóa đơn tiền phòng cho khách mà mất hơn một giờ
đồng hồ.
Đến Ấn Độ là có
cơ hội bằng vàng thực tập và “gia cố” thêm tính
chịu đựng và kiên nhẫn. Nếu bạn muốn cái gì cũng
nhanh vì thời giờ là tiền bạc, thì không có ở xứ
Ấn Độ này, nhất là ở Dharasala.
Dharamsala là
thành phố núi thuộc rặng Hy Mã Lạp Sơn, khí hậu
mát mẻ trong lành, mùa hè là nơi nghỉ mát lý
tưởng cho du khách địa phương. Từ khi Dharamsala
trở thành ‘thủ đô’ của người dân Tây Tạng lưu
vong, thì đây là địa điểm hành hương, tu tập nổi
tiếng, nhất là những ai tín mộ hoặc muốn tìm
hiểu về Phật giáo Tây Tạng và Mật Tông Kim Cang
Thừa.
Nơi đây có nhiều
tu viện, đền đài mang dấu ấn đặc sắc của văn hóa,
kiến trúc, phong cách tu tập và đời sống của
người Tây Tạng. Họ ra đi mang theo quê hương,
cái “hồn” của một dân tộc chọn đạo Phật là quốc
giáo.
Họ hiểu
biết sâu sắc sự vô thường, nên mất hay còn,
không làm họ đánh mất đi sự bình thản, chân chất,
giản dị thể hiện trên nét mặt ở các tu sĩ Tây
Tạng và cả người dân buôn bán trên phố.
Nơi đây phố nhỏ,
nhà nhỏ, không có lề đường cho người đi bộ,
đường xe chạy và thềm nhà sát nhau. Người và xe
chen chúc nhau trên con đường chỉ rộng khoảng 4
mét, vậy mà không có tai nạn, cãi vã, chen lấn,
ai cũng nhường nhau. Các bác tài thì rất “tùy
duyên”, quan sát thấy có vẻ phải chờ lâu, tự
động mở cửa cho chúng tôi xuống xe thư giản cái
thân tứ đại “kham nhẫn” cũng nhiều, hoặc chỉ cho
chúng tôi vào ngắm nghía các cửa hàng chỉ cách
vài bước chân. Chúng tôi mua quà lưu niệm hay
chụp được những bức ảnh độc đáo đường phố Mcleod
Ganj (Thượng Dharamsala) ở những khoảnh khắc
“tùy duyên” rất dễ thương ấy.
Cũng chính các
bác tài, người “độ” chúng tôi lên đèo xuống dốc
trong những ngày ở Dharamsala là hình ảnh chân
thực về tính cách im lặng suy tư, trầm tĩnh của
người Ấn Độ. (Phương pháp định tâm, tập trung tư
tưởng hay còn gọi là thiền định có nguồn gốc từ
Ấn Độ).
Các bác này quả
là những lái xe bậc thầy về sự khéo léo và chánh
niệm: không nói chuyện, không để nhạc trên xe,
không “lầu bầu” khi gặp tắc đường, hoặc gặp một
tay lái khác qua mặt trái phép, và chắn chắn
không uống bia rượu, có lẽ vì giới luật và loại
nước uống có cồn ở đây vốn hiếm và đắt.
Người Ấn Độ dù
theo bất cứ tôn giáo nào họ ăn chay là chính.
Các hiệu ăn thuần túy món ăn Tây Tạng đa phần
cũng là thức ăn chay. Lang thang như một du
khách “ba lô” trên khu trung tâm, chúng tôi chợt
khám phá món cà ry và soup rau nấm kiểu Tây Tạng
ở Dharamsala ngon cực kỳ.
Chúng
tôi may mắn ở một khách sạn cho phép sử dụng nhà
bếp của họ, chỉ trả một chút ít chi phí tiền
gas. Muốn có một bữa cơm hương vị quê nhà có thể
tìm thấy ở Dharamsala đủ loại rau củ, đậu hạt,
trái cây tươi, trồng ở vườn nhà không bón phân
hóa học, trông thì èo uột, nhỏ bé nhưng đảm bảo
sạch, an toàn.
Dharamsala thời
tiết thay đổi như một cô gái đẹp và khó tính,
vừa rực rỡ bởi những tia nắng vàng cuối ngày hứa
hẹn chụp được những bức ảnh hoàng hôn tuyệt đẹp
ở thung lũng Kangra thì sương mù bổng đổ ập
xuống. Chúng tôi xuống phố trong sương mù lãng
đãng, lạnh và thi vị như lời của một bài hát tả
về vùng cao nguyên Pleiku ở quê nhà.
“Phố núi cao phố
núi đầy sương
Phố núi không xa,
nên phố tình thân”.
Dharamsala đúng
là phố núi đầy sương, nhưng cũng thật là thân
quen dù chỉ mới đến có mấy ngày. Ở đây “đi dăm
bước đã về chốn cũ”, từ khách sạn, thả bộ xuống
hai con dốc là đến tu viện Namgyal, nơi diễn ra
Pháp hội.

Tuy lần
đầu tiên tổ chức cho Tăng Ni và Phật tử đến từ
VN khoảng 500 người, nhưng Pháp hội đã thu hút
cả người Tây Tạng, Ấn Độ, du khách nước ngoài và
các tu sĩ Tây Tạng đến từ các tu viện lân cận,
con số chính thức có lẽ gần 5000 người. Người,
xe lên xuống nhộn nhịp trên những con đường chật
hẹp. thỉnh thoảng bị “tắc” bởi các chú bò, ngựa,
lừa, cả chó giống Tây Tạng to, cao lông xù như
một gấu con. Sau khi thả các chất thải vô tư
trên đường, các chú chỉ đủng đỉnh nép vào lề khi
có tiếng còi xe, và chúng tôi đi bộ cũng phải
rất “chánh niệm” nhìn ở dưới chân nếu không thì…
Ấn Độ là một đất
nước giữa giàu và nghèo, văn minh và lạc hậu,
hiện đại và thô sơ, sạch sẽ và dơ bẩn là những
hình ảnh đối lập, chênh lệch rõ rệt được thấy từ
mọi ngóc ngách ở đường phố, nhà cửa, cách sống
và con người.
Ấn Độ
là nơi xuất phát một trong bốn nền văn minh cổ
đại của nhân loại. Văn minh sông Hằng có trên
5000 năm, là nơi hội tụ những tôn giáo lớn,
những trào lưu tư tưởng, văn học, thi ca, nghệ
thuật, mỹ thuật và cả khoa học. Những đóng góp
của nền văn minh sông Hằng nói chung, Ấn Độ nói
riêng cho sự phát triển và tiến bộ của loài
người đến nay có thể nói là đặc sắc và vĩ
đại.
Ấn Độ cũng là
quốc gia duy nhất mở rộng vòng tay hào hiệp đón
tiếp người anh em Tây Tạng trong khổ đau ách nạn.
Dharamsala chính là món quà của tình thương và
sự đồng cảm cao quý nhất.
Vì một đất nước
độc lập, tự do
Một buổi chiều
trên đường từ tu viện Namgyal về khách sạn,
chúng tôi gặp một đoàn biểu tình khá đông gồm
các tu sĩ Tây Tạng với pháp phục màu đỏ (rất đặc
biệt không lẫn vào đâu), người Ấn Độ, Tây Tạng
và các du khách châu Á, châu Âu. Họ ôm ảnh Ngài
Đạt Lai Lạt Ma, giương các biểu ngữ “Freedom for
Tibet”, “Support Tibet Forever”, “Save Tibet”…
tay cầm những ngọn nến hòa bình tiến về tu viện.
Cả thế giới đều
biết đến cuộc xâm lăng tàn bạo của quân đội
Trung Quốc, kéo dài từ năm 1950 đến năm 1959, họ
đã chiếm hoàn toàn Tây Tạng, một nước láng giềng
có chủ quyền. Chưa kể năm 1962, họ cũng đã tiếp
tục gây hấn với Ấn Độ bằng một cuộc chiến tranh
biên giới với 20,000 quân vượt dãy Hy Mã Lạp Sơn
đổ bộ vào một cao nguyên có tên là Aksai Chin
thuộc Ấn Độ mà Trung Quốc nhất định tranh cãi đó
là lãnh thổ của mình.
Sau biến cố 1959,
nhà lãnh đạo chính trị và tinh thần của Tây Tạng
là Đức Đạt Lai Lạt Ma XIV đã rời quê hương cùng
với hơn 80,000 người dân Tây Tạng và hiện nay có
hơn 1 triệu rưỡi người Tây Tạng đang sống rải
rác khắp nơi trên thế giới. Hơn 50 năm qua người
Tây Tạng sống ở Trung Quốc và nước ngoài không
ngừng tranh đấu cho một quốc gia Tây Tạng tự do,
gìn giữ phát huy văn hóa Tây Tạng, Phật giáo Tây
Tạng, ngôn ngữ, lối sống Tây Tạng. Những giá trị
văn hóa và tâm linh quý báu ấy, chính quyền
Trung Quốc muốn bôi xóa, đồng hóa, tiêu diệt, đó
là sự nguy hiểm mà Ngài Đạt Lai Lạt Ma đã cảnh
báo nhiều năm nay.
Chúng tôi đến
thăm Viện Bảo Tàng Tibet ở Dharamsala, không thể
cầm được nước mắt khi xem những chứng tích, hình
ảnh, câu chuyện về cuộc chiến tranh vệ quốc,
cuộc trường chinh đi tìm tự do đầy gian nan, đẫm
máu và nước mắt của người Tây Tạng.
Người Tây Tạng
quen sống với thiên nhiên khắc nghiệt của gió,
nắng và tuyết. Hàng bao thế kỷ đã qua, băng qua
núi cao, vực sâu là cuộc hành trình không mỏi
mệt đã hình thành lịch sử và tính cách kham nhẫn
của Người Tây Tạng. Họ thường chọn mùa đông để
vượt qua dãy Himalaya đến biên giới hai quốc gia
láng giềng là Nepal và Ấn Độ. Họ chịu lạnh rất
giỏi nên tuyết rơi, sông hồ đóng băng lại là
“thiên thời”, giúp họ đi lại dễ dàng hơn là phải
đối mặt, chịu đựng với những cơn bão cát ở sa
mạc vào mùa hè.
Có những cuộc
vượt biên không thành, họ bị tra tấn, đánh đập,
cầm tù, sát hại. Đây là câu chuyện về một nhà
báo nước ngoài phỏng vấn một tu sĩ Tây Tạng sau
khi vị này trải qua nhiều lần bị bắt, tra tấn,
vượt qua bao hiểm nguy, gian khổ cuối cùng đã
đặt chân đến Nepal.
Nhà báo hỏi: -
Trong cuộc hành trình đầy hiểm nguy, gian khổ
đến gần cái chết như vậy, ông có sợ không, và
điều gì làm ông lo sợ nhất?
- Có, tôi có sợ
và điều làm tôi lo sợ nhất là đánh mất lòng từ
bi đối với những người đã sát hại tôi, đồng bào
tôi. “Nỗi lo sợ đánh mất lòng từ bi đối với kẻ
thù”
Bạn nghĩ sao về
câu trả lời từ một trong những người con của đất
nước Tây Tạng lưu vong đã đi qua bao nhiêu “tầng
địa ngục” mà không đánh mất đi lòng thương người,
không mất đi cái mà ta thường nói “Nhân chi sơ
tính bản thiện”?
Lịch sử của các
quốc gia thường tồn tại trên quy luật: mạnh được
yếu thua. Tây Tạng bây giờ không còn là một quốc
gia độc lập có chủ quyền, mà chỉ là một tỉnh,
một khu tự trị của Trung Quốc. Người Tây Tạng đã
thực sự mất quê hương.
Ngài Đạt Lai Lạt
Ma không còn ở trên quê hương huyết thống của
Ngài, nhưng quê hương tâm linh của Ngài đã rộng
mở rất nhiều. Vạn pháp do Tâm. Những bước chân
của Ngài và các đệ tử của Ngài đã đến với hơn 40
quốc gia để cảnh báo về đất nước Tây Tạng đang
bị đồng hóa, tiêu diệt một cách tinh vi và trên
hết là để truyền bá đạo Phật. Giống như con chim
bay trong bầu trời bao la trên đôi cánh Từ bi và
Trí tuệ, Ngài đến với tất cả những ai dù là theo
Phật giáo, khác hoặc không theo tôn giáo nào,
đồng cảm với Ngài qua tuyên ngôn bất hủ: "Tôn
giáo của tôi chính là lòng Từ Bi". Xin cho phép
tôi được nói thêm về tôn giáo của Ngài, đó cũng
là tôn giáo của Sự Thật.
Thánh Tăng giữa
đời thường
Đêm trước ngày
diễn ra Pháp hội, Dharamsala mưa tầm tã, gió
thổi mạnh, như có bão rớt, chúng tôi lo lắng
không biết thời tiết kéo dài như thế này có ảnh
hưởng đến Pháp hội không? Vậy mà sáng hôm sau
chỉ còn những hạt mưa bụi lất phất, trời dần dần
quang đãng. Mọi người nói vui, đêm qua trời mưa
gió, mây đen vần vũ chắc là chư Thiên, Long thần,
Hộ pháp cũng đến nghe pháp. Các Ngài “hô phong
hoán vũ” để mừng cơn mưa Pháp mà chúng tôi sắp
được nghe từ một vị “Thánh tăng giữa đời thường”.
Nếu có ai hỏi tôi:
- Bạn có cảm xúc như thế nào khi được diện kiến
một con người nổi tiếng và vĩ đại như Ngài Đạt
Lai Lạt Ma, một Thánh Tăng giữa đời thường,
thành tựu một ước nguyện mà bạn đã ấp ủ trong 12
năm qua? Tôi chỉ có thể trả lời bằng hai chữ
“tuyệt vời”.
Vâng, tuyệt vời
như người mẹ đã khuất của tôi, trong giấc mơ
bỗng hiện về đặt bàn tay ấm áp trên đầu tôi với
nụ cười của một vị Bồ Tát.

Thật vậy, ấn
tượng đầu tiên của tôi khi trông thấy Ngài là nụ
cười thật hiền hậu, cử chỉ khoáng đạt, thân
thiện và đôi mắt tinh anh ẩn sau cặp kính trắng.
Sau khi chào hỏi đại chúng, thực hiện các nghi
lễ dâng hương, tán thán Phật và nhận sự cúng
dường bài Tâm Kinh Bát Nhã của Tăng Ni Phật tử
VN và Tây Tạng, Ngài bước lên pháp tòa, chắp tay
xá đại chúng với nụ cười thật hoan hỷ, bắt đầu
buổi giảng pháp ngày thứ nhất.
Lời nói đầu tiên
là Ngài rất vui và vinh dự được đón tiếp đoàn
Tăng Ni Phật tử Việt Nam lần đầu tiên đến trú xứ
của Ngài. Ngài đã từng đặt chân đến hơn 40 quốc
gia trên thế giới như Mỹ, Úc, Pháp v.v… Ngài cảm
nhận dù sống ở nơi đâu, người Việt cũng dành cho
đất nước Tây Tạng của Ngài sự cảm thông và ủng
hộ. Dân tộc Việt Nam cũng có truyền thống Phật
giáo lâu đời, và Phật tử VN rất tín tâm với Phật
pháp. Ngài cũng rất vui khi được biết Tâm Kinh
Bát Nhã được đọc, tụng nhiều ở Việt Nam giống
như ở Tây Tạng.
Rồi
Ngài hỏi thăm đại chúng ngủ có ngon không?
Dharamsala là một vùng núi cao, có bị “lạ nước”
có bị đau bụng không? Thật chân tình, giản dị và
ấm áp biết bao. Ngài nói tiếng Tạng,
người
thông dịch sang tiếng Việt là sư cô Nhật Hạnh
một Ni sinh đang theo học Kim Cang Thừa tại
Dharamsala đảm nhiệm.
Đại chúng bị cuốn
hút bởi khả năng biện tài của Ngài, khúc triết
nhưng không thiếu sự khôi hài, bằng những dẫn dụ
nhẹ nhàng, hóm hỉnh Ngài kể: “Có người hỏi tôi ở
Tây Tạng có nhiều phái: mũ vàng, mũ đỏ, mũ trắng
v.v. tại sao như vậy? Tôi trả lời: “Đức Phật
không có đội mũ”. (Đại chúng cười ồ).
Ngài khuyên mọi
người đến với đạo Phật, theo Ngài không phải chỉ
có niềm tin mà cần có sự hiểu biết về giáo pháp,
cần phải học hỏi và thực hành. Điều này rất quan
trọng, bởi đạo Phật cốt lõi là đạo của trí tuệ,
là đạo của sự thật.
Ngài nói đại ý là
chúng ta sống trong thế kỷ XXI, nhiều phát minh
khoa học tiên tiến ra đời, là thời đại của
internet, mọi thông tin, kiến thức có thể tìm
thấy rất phong phú, rất nhanh, hãy tận dụng
những phương tiện hiện đại đó để trau dồi sự
hiểu biết về Phật pháp và hãy thực hành Bồ tát
đạo, làm lợi ích cho mình và cho người khác. Mỗi
người hãy là một vị Bồ Tát, một vị Phật, một
Thượng đế, một đấng Sáng tạo của chính mình.
Chúng tôi rất cảm
động vì đây là những lời nhắn nhủ tinh túy, tràn
đầy lòng từ bi Ngài đã dành cho chúng tôi, những
người con của đức Phật đến từ một đất nước còn
nghèo, thường xuyên bị thiên tai địch họa, đang
đứng trước nhiều thách thức trong việc xây dựng
một xã hội công bằng, đạo đức một cuộc sống hạnh
phúc, an vui cho tất cả mọi người.
Theo nghi lễ Tây
Tạng, giữa các buổi giảng pháp là lễ cúng dường
trà. Các vị tu sĩ Tây Tạng cầm bình trà sữa và
những chiếc bánh làm bằng bột mì có vị ngọt rót
và mời tất cả mọi người trong chánh điện và cả
bên ngoài.
Ngài
Đạt
Lai Lạt Ma cũng ăn bánh uống trà như chúng tôi,
cười sảng khoái, thân thiện và giản dị, sự giản
dị tự nhiên xuất phát từ cái tâm phóng khoáng
“tứ hải giai huynh đệ” và Ngài cũng rất tinh tế.
Sau khi uống trà nóng xong, Ngài bảo một vị Tăng
trẻ điều chỉnh lại quạt máy trong chánh điện cho
mọi người mát mẻ hơn, tắt đèn cho mọi người bớt
chói vì bên ngoài nắng đã lên.
Chúng tôi cảm
nhận mỗi cử chỉ, mỗi hành động, mỗi lời nói và
ngay cả sự im lặng của một vị Đạo sư đều là bài
pháp vi diệu. Trong đạo Phật gọi là "Thân giáo".
Chương trình
thuyết pháp được tiếp nối bằng phần thính chúng
đặt câu hỏi nêu thắc mắc với Ngài. Cũng với
phong cách giản dị, Ngài rời pháp tòa, ngồi trên
một chiếc ghế thấp để gần với thính chúng hơn,
thỉnh thoảng Ngài nói bằng tiếng Anh.
Có một câu hỏi
“ngoại điển” đặt ra cho Ngài: Thính chúng muốn
biết Ngài có chuẩn bị sự tái sinh của Ngài không?
Ngài sẽ trở thành một Lạt Ma của Tây Tạng hay
không?
Chúng tôi thật
bất ngờ, Ngài trả lời theo cách ẩn dụ thật khéo
léo. Ngài nói đến quê hương Tây Tạng Ngài đã ly
biệt, đến vai trò chính trị Ngài đã từ bỏ, đến
sự phát triển của Phật giáo và Ngài tin rằng sẽ
phát triển mạnh mẽ hơn nữa, nhất là ở phương Tây,
vì vậy Ngài có tái sinh không và tái sinh ở đâu,
Ngài trả lời với nụ cười: “No answer”.
Hai ngày trôi
qua, pháp hội kết thúc bằng lễ Cầu Trường Thọ
cho Ngài. Được cúng dường chụp ảnh kỷ niệm với
Ngài là vinh dự và hạnh phúc hiếm có, nên ai
cũng muốn đứng thật lâu, nhưng rồi cũng phải
đảnh lễ tạm biệt Ngài, có người với nụ cười rạng
rỡ, có người với đôi mắt đỏ hoe.

Nhưng đột nhiên
tất cả đều vỡ òa trong vui mừng khi Ban tổ chức
thông báo về một tin bất ngờ, một đặc ân hy hữu
chưa từng có: Ngài Đạt Lai Lạt Ma lần đầu tiên
cho phép Tăng Ni Phật tử Việt Nam đến viếng và
đảnh lễ nhục thân của Vị Thánh Sư, Giáo Thọ của
Ngài - Ling Rinpoche thứ VI.
Nhục thân Thánh
Sư được thờ trong một biệt điện nằm trên một
ngọn đồi bao bọc bởi những cây thông, cây tùng
cổ thụ, tịnh thất đơn sơ của Ngài Đạt Lai Lạt Ma
cũng nằm ẩn khuất gần đó, nối tiếp bằng những
khoảnh sân vườn trồng nhiều bonsai và hoa, thật
nhiều hoa.
Ở đây, Ngài sinh
hoạt như một tu sĩ bình thường, như Ngài thường
nói: Tôi chỉ là một tu sĩ Phật giáo bình thường,
không hơn không kém (I
am just a simple Buddhist monk, no more no less).
Vào trú xứ của
Ngài, an ninh rất nghiêm nhặt, kiểm tra hai vật
bất ly thân là hộ chiếu, thẻ an ninh đi lại
trong Dharamsala, khám xét người vào các khu vực
đặc biệt là chuyện bình thường và bắt buộc. Hành
lý to hay nhỏ kể cả điện thoại máy ảnh, máy quay
phim đều phải bỏ lại bên ngoài.
Chúng tôi chắp
tay im lặng bước vào căn phòng đầu tiên, nơi
trưng bày các bức tranh (thanka) đặc trưng mỹ
thuật Tây Tạng, các tượng Phật bằng vàng bạc,
ngọc quý, các pháp khí đủ loại, kích cỡ khác
nhau được chạm trổ rất tinh xảo, rất đẹp, đúng
là quốc bảo của đất nước Tây Tạng.
Phòng kế tiếp là
nơi thờ Thánh Sư. Chiêm bái nhục thân Thánh Sư
xả báo thân trong tư thế tĩnh tọa kiết già,
chúng tôi quỳ xuống đảnh lễ với niềm xúc động vô
cùng: đây là vị Thầy đã khai tâm mở trí cho Ngài
Đạt Lai Lạt Ma và Ngài Đạt Lai Lạt Ma, trong sự
ngưỡng mộ và kính trọng của Phật tử của những
người khác tôn giáo hoặc không tôn giáo khắp nơi
trên thế giới, Ngài chính là sự tiếp nối xứng
đáng và rạng rỡ nhất.
Đảnh lễ Thánh Sư,
chúng tôi càng chiêm nghiệm sâu sắc giáo lý luân
hồi của đạo Phật. Riêng Phật giáo Tây Tạng đã
chứng minh sự tái sinh bằng hóa thân của các vị
Lạt Ma, đây là điểm đặc sắc nhất của Phật giáo
nước này.
Chúng ta đã từng
chết đi, sống lại nhiều đời, nhiều kiếp, vì thế
chết không phải là điều đáng sợ, và sống là có
cơ hội tu tập, thành tựu công đức vì lợi ích cho
tất cả chúng sanh.
Ngài Đạt Lai Lạt
Ma đã và đang thành tựu công đức vô lượng như
thế.
Thành tâm đảnh lễ
Ngài với lòng tôn kính và tri ân vô hạn!
Kim Yến - Chơn Định Hòa
chấp bút


|