Tổ Sư Nguyên
Thiều
Với Hành Tung Và
Thi Kệ Thị Tịch
Thích Thái Hòa


Chân dung Tổ Nguyên Thiều
Tổ sư họ Tạ, húy
Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày
15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7
năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu,
Quảng Đông. Năm 19 tuổi xuất gia với Hòa Thượng
Bổn Khao - Khoáng Viên tại chùa Báo Tư, ở Trung
Hoa được Bổn sư trao cho Pháp danh Nguyên Thiều,
tự Hoán Bích. Ngài Bổn Khao – Khoáng Viên tiếp
nhận đạo mạch từ Tổ sư Đạo Mẫn – Mộc Trần -
Hoằng Giác, đời 31 phái thiền Lâm Tế.
Thiền kệ truyền
thừa của Ngài Đạo Mẫn như sau:
“Đạo bổn nguyên
thành Phật tổ tiên
Minh như hồng
nhật lệ trung thiên
Linh nguyên quảng
nhuận từ phong phổ
Chiếu thế chơn
đăng vạn cổ huyền”.
Như vậy, Tổ sư
Nguyên Thiều trong đạo mạch truyền thừa Chánh
Pháp Nhãn Tạng đời thứ 69, từ Tổ sư Ca Diếp của
Ấn Độ; đời thứ 33 từ Tổ sư Lâm Tế - Nghĩa Huyền
và là đời thứ ba trong thiền kệ truyền thừa từ
ngài Đạo Mẫn – Mộc Trần - Hoằng Giác, ở chùa
Thiên Khai, Trung Hoa.
Tổ đình Quốc Ân –
Huế truyền thừa theo thiền kệ của Ngài Đạo Mẫn.
Đọc một số tư
liệu khác, như bản Chánh Pháp Nhãn Tạng, in năm
1889, lưu giữ tại chùa Viên Thông – Huế; Việt
Nam Phật Giáo Sử Lược của Thượng tọa Thích Mật
Thể và bia tại ngôi tháp thờ vọng ở chùa Kim
Cang Đồng Nai, thì pháp danh của Tổ sư Nguyên
Thiều là Siêu Bạch được truyền thừa từ thiền kệ
của Tổ Sư Vạn Phong –Thời Ủy ở chùa Thiên Đồng –
Trung Hoa.
Bài kệ như sau:
“Tổ đạo giới định
tông
Phương quảng
chứng viên thông
Hạnh siêu minh
thật tế
Liễu đạt ngộ chân
không”.
Nếu theo dòng kệ
truyền thừa nầy, thì Tổ sư Nguyên Thiều trong
đạo mạch truyền thừa Chánh Pháp Nhãn Tạng là đời
thứ 69, từ Tổ sư Ca Diếp tại Ấn Độ; đời thứ 33,
từ ngài Lâm Tế - Nghĩa Huyền và đời thứ 12, từ
ngài Vạn Phong – Thời Ủy của pháp phái Thiên
Đồng ở Trung Hoa.
Năm Đinh Tỵ, tức
năm 1677, Tổ sư đã đi theo thuyền buôn đến phủ
Quy Ninh Đại Việt, tức là Quy Nhơn – Bình Định
ngày nay, lập chùa Di Đà Thập Tháp truyền bá
phật pháp tại vùng nầy. Sau đó Tổ ra Phú xuân
Lập chùa Vĩnh Ân và xây dựng tháp Phổ Đồng, tức
là Tổ đình Quốc Ân ở Huế ngày nay, để tuyên
dương Phật pháp và tháp Phổ Đồng do ngài xây
dựng ngày ấy đã bị quân Tây Sơn phá sạch. Bấy
giờ Tổ cũng đã trú trì chùa Hà Trung, ở huyện
Phú Vang, Thừa Thiên ngày nay.

Tháp Tổ Nguyên Thiều
Theo một số tư
liệu cho ta biết rằng, Tổ đã được chúa Nguyễn
Phúc Thái thỉnh cầu sang Trung Hoa để thỉnh mời
các danh Tăng, Phật tượng và Pháp khí từ Trung
Hoa đến Đại Việt để phụng thờ và hành đạo. Tổ
Sư rất được chúa Nguyễn Phúc Thái kính trọng.
Trong chuyến đi
nầy theo bi ký ở chùa Quốc Ân, do chúa Nguyễn
Phước Thụ (1725 – 1738) viết: “Ngài đã đi, đã
về và đã hoàn thành sứ mệnh với nhiều thành công
và nhiều thành tựu to lớn”.
Và về việc luận
đạo và chứng ngộ, chúa Nguyễn Phúc Thụ viết ở bi
ký rằng: “Trong những chỗ luận đạo, Ngài đã
chạm đến chỗ uyên áo tột cùng”.
Trong thời chúa
Nguyễn Phúc Chu có những chính biến liên hệ đến
Hoa kiều, Tổ sư Nguyên Thiều cũng đã bị chúa
nghi ngờ có ít nhiều liên hệ, nên sự trọng vọng
và ưu đãi không như thời chúa Nguyễn Phúc Thái,
khiến sự hành đạo của Tổ đã có phần nào không
thuận lợi ở thời điểm nầy, khiến các sử gia ngày
nay đặt ra nhiều nghi vấn, nhưng chưa có sự trả
lời nào có tính thuyết phục và thỏa đáng.
Trước khi viên
tịch, Tổ đã gọi tứ chúng vâng tập và dạy bảo
những tông chỉ tu tập và hành đạo, rồi nói bài
kệ khai thị cho tứ chúng xong, ngài ngồi ngay
thẳng mà tịch, vào ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thân,
tức ngày 20 tháng 11 năm 1728, hưởng thọ 81 tuổi.
Bài kệ thị tịch
của Ngài như sau:
“Tịch tịch cảnh
vô ảnh
Minh minh châu
bất dung
Đường đường vật
phi vật
Liêu liêu không
vật không”.
Nghĩa là:
“Vắng lặng gương
không ảnh
Sáng soi ngọc
không hình
Rõ ràng vật không
vật
Rỗng không, không
chẳng không”.
“Tịch tịch cảnh
vô ảnh, minh minh châu bất dung”, nghĩa là “vắng
lặng gương không ảnh, sáng soi ngọc không hình”.
Hai câu nầy, Tổ dạy về “Thật tính Bát nhã”. Thực
tính ấy bản nhiên thanh tịnh, xuyên suốt mọi
không gian, nên không bị cách vật, không có năng
sở, không có chủ thể, không có đối tượng; và
tính ấy xuyên suốt mọi thời gian, nên không bị
hủy diệt, nó không nhân ngã, không bỉ thử, nên
bình đẳng tuyệt đối. Tính ấy kinh Kim Cang gọi
là Vô vi; là Như. Tổ Huệ Năng gọi là “Bản lai vô
nhất vật”; Minh Châu – Hương Hải, gọi là “Thể
tính hư dung, chiếu dụng tự tại”.
“Đường đường vật
phi vật, liêu liêu không vật không”, nghĩa là
“rõ ràng vật không vật, rỗng lặng không chẳng
không”. Hai câu nầy Tổ dạy về “quán chiếu Bát
Nhã”. Nghĩa do quán chiếu Bát Nhã, thấy rõ mọi
vật “Đương thể tức không”, nghĩa là ngay đó mà
không và ngay nơi không mà muôn vật khởi hiện.
Ngay đó mà không, kinh Kim Cang diễn tả bằng các
mệnh đề phi và ngay nơi không mà muôn vật khởi
hiện, kinh Kim Cang diễn tả bằng các mệnh đề thị.
Các mệnh đề phi và thị của kinh Kim Cang được
Phật sử dụng để diễn tả thực tại Như, không
những ngay ở nơi vật mà ở ngay nơi phi vật;
không phải ngay ở nơi không mà cả ngay ở nơi phi
không. Vì vậy, Tổ Nguyên Thiều dạy: “Đường đường
vật phi vật, liêu liêu không vật không”. Vật rõ
ràng không phải là vật; không trống rỗng không
phải là không, cái thấy nầy hoàn toàn không
thuộc về cái thấy của nhục nhãn hay thiên nhãn
mà nó là cái thấy quán chiếu duyên khởi để thấy
rõ Tánh - không thuộc về tuệ nhãn và pháp nhãn.
Còn cái thấy thuộc Phật nhãn thì lúc nào và ở
đâu cũng Như, nghĩa là cái thấy không còn quán
và chiếu, không còn năng và sở, không còn có cái
tôi và cái phi tôi, không còn pháp và phi pháp.
Như Tổ Nguyên Thiều đã hiển thị: “Tịch tịch cảnh
vô ảnh, minh minh châu bất dung”.
Như vậy, kinh Kim
Cang Bát Nhã qua tay của Tổ sư Nguyên Thiều
chứng nghiệm và sử dụng để hành đạo, chỉ còn lại
gọn gàng bốn câu và mỗi câu đều là Như. Như
không phải chỉ ở mặt thể tánh mà còn cả mặt
chiếu dụng; Như không phải chỉ ở mặt vật mà còn
cả mặt phi vật; không phải chỉ ở mặt không mà
còn cả mặt phi không. Như ấy là như thật tri
kiến mà kinh Kim Cang muốn hiển thị mà Tổ đã
chứng ngộ vậy.
Nhân kỷ niệm húy
nhật lần thứ 283 năm, Tổ Sư Nguyên Thiều viên
tịch, chúng con dâng lên cúng dường Tổ Sư bài
cảm niệm về hành tung và thi kệ thị tịch của
Ngài với tất cả lòng thành kính của chúng con,
ngưỡng vọng Tổ Sư phủ thùy chứng giám.

Sắc Tứ Quốc Ân Tự

Tháp Tổ Quốc Ân
-----------------------
Tài liệu tham khảo
- Quốc
Sử Quán – Đại Nam Nhất Thống Chí – Duy Tân Tam
Niên (1910).
- Quốc
Sử Quán - Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên.
- Lịch
Truyện Tổ Đồ.
- Thích
Đại Sán – Hải Ngoại Kỷ Sự.
- Thích
Mật Thể - Việt Nam Phật Giáo Sử Lược.
-
Nguyễn Lang – Việt Nam Phật Giáo Sử Luận.
- Thích
Thanh Từ - Thiền Sư Việt Nam.
- Cadière – La pagode Quốc Ân.
- Tạp Chí Sinologia No 1.
1949.
- B.A.V.H 1914, 1915.
- Văn
bia Tháp Tổ Nguyên Thiều và chùa Quốc Ân.


|