Phật Giáo Với
Việc Xây Dựng Đạo Đức, Lối Sống
Tiến sĩ Nguyễn
Văn Mạnh
Có thể nói sự
xuống cấp về đạo đức đang trở thành một vấn nạn
của toàn xã hội. Trước yêu cầu phát triển của
đất nước, sự cần thiết phải xây dựng một nền
tảng đạo đức mới cho xã hội trên cơ sở kế thừa
các giá trị đạo đức truyền thống đã được đặt ra.
Ra đời ở Ấn Độ,
trải qua gần 20 thế kỷ tồn tại và phát triển
cùng với dân tộc, Phật
giáo
đã để lại những dấn ấn sâu sắc và trở thành dòng
tư tưởng thực sự ăn sâu vào đạo đức, lối sống
của con người Việt Nam. Với triết lý từ bi, hỷ
xả, khuyến khích con người hướng thiện, Phật
giáo đã dễ dàng đi vào lòng người, có tác dụng
hoàn thiện nhân cách đạo đức, hướng con người
đến lối sống vị tha, bình đẳng, bác ái. Thực tế
đã chứng minh, Phật giáo phù hợp với đạo đức,
lẽ sống của con người Việt Nam, và nó đã có
những đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc. Ngày nay trong bối cảnh phức
tạp của tình hình chính trị - văn hoá thế giới,
những giá trị tích cực của tôn giáo này lại một
lần nữa được kiểm chứng.
Nhân loại chúng
ta đã đạt được những tiến bộ vượt bậc về khoa
học kỹ thuật, nhưng chưa bao giờ con người cảm
thấy khốn khổ và nhiều âu lo như ngày nay. Một
loạt những diễn biến phức tạp của tình hình
chính trị thế giới và cả mặt trái của nền công
nghiệp làm cho môi trường sinh thái tự nhiên và
môi trường nhân văn bị ô nhiễm trầm trọng. Đó là
một trong những lý do cơ bản làm cho niềm tin và
hy vọng của nhiều người bị khủng hoảng. Mất tiêu
chuẩn và lý tưởng cổ điển, con người rơi vào cô
đơn, hoang mang và khủng hoảng. Như Edgar Morin
đã nói: “Nhiều sự phân cực trong thế giới
phương Tây, về cách thức đôi khi ngây thơ hoặc
vụng về nhưng ới cùng một ý thức mập mờ rằng thế
giới kỹ thuật hoá, duy vật hoá, kinh tế hoá, ích
kỷ hoá của Tây phương làm cho con người phải đau
khổ nơi phần sâu thẳm nhất, nơi tận linh hồn và
tâm trí chúng ta”[1]. Đáng tiếc, điều đó
không chỉ diễn ra ở phương Tây.
Ở Việt Nam từ
những năm cuối của thế kỷ XX, đất nước ta đang
ngày càng chịu nhiều tác động mạnh mẽ của nền
kinh tế thị trường, của quá trình công trình
công nghiệp hoá – hiện đaị hoá. Theo đó, mặt
trái của quá
trình này là các gái trị đạo đức truyền thống
đang dần bị băng hoại, nhiều biểu hiện của lối
sống xa lạ, trái với thuần phong mỹ tục trong
một bộ phận cộng đồng dân cư diễn ra ngày càng
phổ biến. Thái độ coi thường những giá trị
truyền thống là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn
xã hội đang ngày càng có chiều hướng gia tăng,
đặc biệt là ở lớp trẻ. Họ có thiên hướng đề cao
cá nhân, sống ích kỷ, lạnh lùng, không tình
không nghĩa, ít chú ý đến nghĩa vụ và trách
nhiệm, ít quan tâm đến những người xung quanh….
Hàng loạt những hiện tượng đau lòng diễn ra ở
chốn học đường gần đây khiến cho chúng ta không
thể làm ngơ.
Có thể nói sự
xuống cấp về đạo đức đang trở thành một vấn nạn
của toàn xã hội. Trước yêu cầu phát triển của
đất nước, sự cần thiết phải xây dựng một nền
tảng đạo đức mới cho xã hội trên cơ sở kế thừa
các giá trị đạo đức truyền thống đã được đặt ra.
Nghị quyết Đại
Hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ
phương hướng nhiệm vụ xây dựng con người Việt
Nam trong thời kỳ mới: “Xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư
tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng
tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan
dung, tôn trọng tình nghĩa, lối sống có văn hoá,
quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và
toàn xã hội”[2].
Là một trong
những thành tố tạo nên nền văn hoá dân tộc trong
suốt hàng nghìn năm, Phật giáo ngày nay vẫn lưu
giữ những giá trị tích cực có thể góp phần xây
dựng đạo đức lối sống cho con người Việt Nam.
Tính hướng thiện của Phật giáo là một trong
những nguồn gốc của chủ nghĩa nhân đạo; tư tưởng
bình đẳng, hoà bình của Phật giáo phù hợp với xu
hướng hoà đồng liên kết giữa các dân tộc trên
thế giới trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay;
lòng từ bi, bác ái góp phần cứu giúp người hoạn
nạn, giữ vững tinh thần là lành đùm lá rách của
dân tộc, triết lý vô thường, vô ngã giúp con
người giảm bớt cái tôi vị kỷ…. Những giá trị
tích cực đó của Phật giáo càng được nhân lên với
những hành động cụ thể, như kẻ đói được cho ăn,
kẻ rách được cho mặc, người ốm đau bệnh tật được
chăm sóc,…. Giáo lý nhà Phật khuyên con người
luôn nhớ đến “đạo hiếu”, lấy chữ hiếu làm đầu:
“hạnh hiếu là hạnh Phật, tâm hiếu là tâm Phật”,
“muôn việc ở thế gian không gì hơn công ơn nuôi
dưỡng của cha mẹ”. Thêm vào đó, những không gian
chùa chiền của Phật giáo luôn thu hút con người
tìm về chốn tĩnh tâm, nơi chiêm nghiệm và cảm
nhận…. Tất cả những điều đó là những giá trị
tích cực, thiết thực góp phần giáo hóa con người,
giúp cho thế hệ trẻ vững bước trước những cám dỗ
của cuộc đời, khích lệ họ quan tâm đến số phận
của cộng đồng, sống lương thiện, coi trọng tính
nhân bản, coi trọng thiên nhiên…. Bên cạnh đó,
lối sống Phật giáo nêu cao tinh thần “cư trần
lạc đạo” đã góp phần xây dựng lối sống có trách
nhiệm với một ý thức không tham quyền cố vị,
không bám lấy lợi ích vật chất, sống thanh cao
tự tại. Bởi theo định nghĩa của đức Phật, tham
và sân là hai năng lực tiêu cực mạnh mẽ nhất
trong tâm thức của con người, chúng che khuất
tầm nhìn và làm nhiễu loạn sự phán đoán của ta,
cho nên, cũng theo Ngài, diệt trừ được tâm sân,
đích thực là một thành tựu to lớn nhất của con
người. Như thế Phật giáo đã góp những gái trị
văn hoá tích cực vào việc xây dựng đạo đức lối
sống cho con người, nhất là cho tầng lớp trẻ
hiện nay.
Đặc biệt, Phật
giáo còn góp phần rèn luyện một lối sống kham
nhẫn, khắc kỷ. Đó là những hình thức tu tập kiên
nhẫn, vượt qua những cám dỗ của cuộc đời để lòng
được thanh cao, tâm hồn được giải thoát. Để đạt
được điều đó người tu hành phải kiên nhẫn thực
hành Giới – Định – Tuệ. Giới là giới luật mà tín
độ phải tuân theo nhằm không phạm phải lỗi lầm
về tư tưởng, lời nói và hành động; Định là thiền
định bài trừ tạp niệm; Tuệ chỉ trí tuệ, bài trừ
dục vọng, bao gồm văn tuệ (học hành mà có được),
tư tuệ (suy nghĩ mà có tuệ), tu huệ (thực hành
mà có tuệ). Muốn đạt được Tam học của Phật giáo,
Phật tử phải có lối sống kiên nhẫn, chịu đựng,
khắc kỷ. Giáo sư Lương Ninh đã nhắc đến mặt tích
cực này của Phật giáo khi đề cập đến tính cách
người Nhật: “…người Nhật rất thực tế, Họ đã
từng có Nho học, theo Nho giáo, nhưng Nho giáo
không độc tôn mà được lưu giữ như một yếu tố các
tác dụng giáo dục ý thức bổn phận và sự ứng xữ
hợp lý, đồng thời duy trì yếu tố có tác dụng
giáo dục ý thức phục tùng, võ sĩ đạo để rèn
luyện bản thân, tinh thần tự trọng và đề cao
Phật giáo để giáo dục tinh thần nhẫn nại, khắc
kỷ”[3]. Trong cuộc sống hiện đại hôm nay, có
không ít người, nhất là tầng lớp thanh thiếu
niên, có lối sống liều lĩnh, bất chấp tất cả,
thiếu kiên nhẫn, ít có khả năng chịu đựng, gặp
thất bại dễ buông xuôi,… thì lối sống khiêm cung,
nhẫn nại của Phật giáo càng có ý nghĩa giáo dục
tính cách lối sống cho bộ phận này. Bên cạnh đó
với tinh thần nhập thế “tuỳ duyên bất biến, bất
biến tuỳ duyên”, đạo Phật đã vận động theo xu
thế của dân tộc, vừa giữ vững triết lý cơ bản
của Phật giaó, vừa dung hoà với đời sống thế
giới hiện đại. Ví dụ, thấy bên cạnh những ngôi
chùa mái cong hòa mình vào thiên nhiên cảnh vật
đã xuất hiện những ngôi chùa bê tông; các loại
kinh sách được dịch bằng chữ quốc ngữ được xuất
bản và phổ biến rộng rãi, những tiếng cầu kinh
gõ mõ giữa chốn chùa thanh vắng trước đây nay âm
vang của nó lan toả đến những vùng đô thị, hoặc
được thâu thành băng đĩa về với mọi nhà, những
buổi thuyết giảng giáo lý trước đây được gói gọn
trong những ngôi chùa nay được quốc tế hoá thành
những hội nghị hội thảo chuyên sâu…. Tinh thần
nhập thế của đạo Phật qua đó là một phần không
thể thiếu để giáo dục đạo đức lối sống cho con
người Việt Nam trước ngưỡng cửa hội nhập và phát
triển trong xu hướng toàn cầu hoá mà vẫn giữ
được truyền thống đạo đức của con người Việt
Nam; tinh thần đó phù hợp với chủ trương xây
dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc.
Có thể nói trong
những năm qua bằng những hoạt động cụ thể, Phật
giáo đã có những đóng góp tích cực vào việc giáo
dục đạo đức lối sống cho con người Việt Nam,
nhất là tầng lớp thanh thiếu niên.
Các khoá tu, các đạo tràng được tổ chức rộng rãi
từ thành thị đến nông thôn với quy mô ngày càng
lớn, đặc biệt Phật giáo đã tạo ra một môi trường
tâm linh lành mạnh để tuổi trẻ hôm nay càng nhận
thức sâu sắc hơn các giá trị của đời sống tinh
thần, bớt đi sự tham lam vị kỷ của lối sống vật
chất. Những năm gần đây, Phật giáo đã rất quan
tâm đến việc giáo dục thanh thiếu niên, nhiều
chùa chiền đã được tổ chức các trại hè cho thành
thiếu niên và trở thành các khoá tu mùa hè cho
học sinh, sinh viên để dạy cho các em lòng nhân
ái, tính kiên nhẫn, giúp cho lớp trẻ luôn
biết ơn mọi người xung quanh, biết quý trọng ông
bà, cha mẹ, giúp cho trẻ em hư hỏng trở thành
những người tốt, thành những công dân có ích cho
xã hội. Ví dụ khóa tu mùa hè dành cho thiếu niên
ở chùa Hoằng Pháp (Sàigòn) từ năm 2007 đến nay
đã tổ chức quy tụ trên 500 em mỗi khoá, trại hè
thanh thiếu niên do báo Giác Ngộ tổ chức năm
2008 đến nay quy tụ hàng trăm trại sinh. Ngoài
ra, các tu viện trong cả nước đều có các hình
thức giáo dục thanh thiếu niên qua các kháo tu
thiền, niệm Phật; các chùa chiền còn tổ chức các
lớp học tình thương, tập trung các trẻ em cơ nhỡ
không nơi nương tựa, trẻ em đường phố vừa để dạy
văn hoá, vừa dạy giáo lý Phật giáo nhằm giúp các
em trở thành những con người có ích cho xã hội.
Các chùa chiền hằng năm còn tổ chức các tuần lễ
văn hoá Phật giáo, lễ hội Vu Lan để kêu gọi mọi
người nhớ đến công đức của cha mẹ ông bà tổ tiên,
cũng là dịp để mọi người hướng về quá khứ truyền
thống, để con cháu nhớ về những người đã khuất.
Một hoạt động khác có tác dụng giáo dục đạo đức
lối sống cho tầng lớp thành niên cần được đề cập
đến ở đây là lễ Hằng Thuận – dành cho “các cặp
vợ chồng trước khi tiến hành hôn lễ” để giáo dục
sự thuỷ chung, đạo lý gia đình cho họ trước khi
bước vào cuộc sống hôn nhân.
Ngày nay với
phương châm “Đạo pháp & Dân tộc”, Phật giáo đã
tham gia tích cực vào các phong trào phát triển
xã hội, bảo vệ môi trường. Đặc biệt công tác từ
thiện với tinh thần cứu khổ cứa nạn của đạo Phật
hòa cùng truyền thống ‘lá lành đùm lá rách’ của
dân tộc; Tăng ni Phật tử đã tổ chức cứu trợ cho
đồng bào thiên tai lũ lụt, cho những vùng quê
nghèo khổ, cho những mảnh đời bất hạnh…. Những
hoạt động từ thiện đó của đạo Phật cùng nhằm
điều chỉnh tính các lối sống, góp phần hình
thành nhân cách của một con người sống có ích
cho xã hội.
Có thể nói, khoa
học kỹ thuật sẽ ngày càng tiến bộ, nền kinh tế
của nhân loại sẽ ngày càng phát triển theo xu
thế văn minh, hiện đại, theo đó đạo đức và lối
sống của con người cũng cần phải biến đổi để phù
hợp với hoàn cảnh sống mới, nhưng dẫu biến đổi,
đạo đức và lối sống của con người luôn phải dựa
trên các chuẩn mực của những giá trị truyền
thống và “không thể tách rời đạo đức khỏi
những quy tắc tôn giáo”[4] như cựu tổng
thống Nga V.Putin đã nói. Rõ ràng bất cứ tôn
giáo nào ngoài hệ thống những giá trị đặc thù để
bảo vệ niềm tin tôn giáo, còn có những chuẩn mực
đạo đức mang tính nhân bản, như sống hiếu thảo
với cha mẹ, trung thực, nhân ái, hướng thiện… Vì
vậy, việc giáo dục lối sống và đạo đức trước đây
và hôm nay không thể tách rời khỏi đạo đức và
lối sống của tôn giáo, nhất là Phật giáo. Điều
đó có nghĩa là chúng ta cần phải có những giải
pháp để nâng cao hơn nữa vai trò của tôn giáo
nói chung và Phật giáo nói riêng trong việc xây
dựng nhân cách đạo đức cho con người Việt Nam
nhất là tầng lớp thanh thiếu niên. Những giải
pháp đó có thể là:
Để cho lối sống
và đạo đức Phật giáo hoà vào đời sống xã hội,
các Tăng ni Phật tử cần phát huy tinh thần nhập
thế hơn nữa, cần nâng cao tinh thần bác ái, cứu
khổ cứa nạn của người tu sĩ đối với cộng đồng.
Từ những hoạt
động đó giáo lý Phật giáo được hoà nhập với đời
sống xã hội, thông qua đó góp phần xây dựng nhân
cách lối sống đạo đức lành mạnh, an lạc cho con
người. Điều đó có nghĩa là chư Tăng ni Phật tử
không phải chỉ biết tụng kinh gõ mõ ở chốn chùa
chiền mà phải truyền bá giáo lý và phải bằng lối
sống từ bi hỷ xả, bao dung, mang giáo pháp đi
vào lòng dân để mọi người bỏ ác làm lành, bỏ cá
nhân ích kỷ để sống vô ngã vị tha. Quý Tăng ni Phật
tử, tuỳ vào từng lứa tuổi, từng nhóm xã hội để
có những phương pháp giảng dạy, truyền bá tư
tưởng Phật giáo thích hợp. Tăng ni phật tử và
chốn chùa chiền bằng lối sống và nhân cách của
mình dạy cho con người lòng nhân nghĩa, đạo làm
người. Các chùa chiền, tu viện cần phải thường
xuyên mở các khoá tu cho cả những người dân từ
vùng đô thị đến những vùng cao xa xôi hẻo lánh,
bên cạnh đó cũng cần thường xuyên tổ chức những
lễ hội Phật Đản, lễ hội Vu Lan, lễ Hằng Thuận,
tổ chức những tuần văn hoá Phật giáo ở các thành
phố trung tâm….
Các hoạt động từ
thiện của Phật gíao cũng cần phải được đẩy mạnh,
như mở các lớp học tình thương, xây dựng các
trung tâm cô nhi viện, viện dưỡng lão, cứu trợ
những người dân gặp hoạn nạn, chăm sóc những
mảnh đời bất hạnh. Chính thông qua thái độ từ
bi, không nề hà việc cưu mang, cứu vớt những số
phận bất hạnh mà Phật giáo đã cảm hoá được con
người, dẫn dắt họ làm điều thiện, tránh xa tội
ác, bỏ qua lối sống vị kỷ lạnh lùng để quan tâm
đến con người và xã hội.
Phải nói rằng sự
lan toả đạo đức và triết lý Phật giáo một phần
chủ yếu là do chư Tăng ni có nhân cách đạo đức
trong sạch, thanh tao thực hiện. Chính nhân cách
của họ đã cảm hoá con người, họ được xem như
những nhà mô phạm có tâm hồn cao đẹp, những vị
Thầy tâm linh có khả năng hướng dẫn con người xa
rời tội lỗi. Vì vậy, Tăng ni Phật tử phải thường
xuyên học tập chánh pháp, tu luyện bản thân. Đó
là điều quan trọng tạo điều kiện cho Phật giáo
truyền bá sâu rộng và lâu bền cùng với dân tộc,
góp phần xây dựng những giá trị đạo đức và lối
sống cho con người Việt Nam hiện nay.
Cảnh chùa cũng
được xem là một không gian yên tĩnh để không
những là nơi thực hành chánh pháp mà còn là nơi
để con người xa rời những đam mê dục vọng, những
tham lam ích kỷ, trở về với cuộc sống tâm linh
yên bình, thanh tao. Chùa chiền còn là nơi để
con người cân bằng cuộc sống, để con người gần
với tự nhiên, cảnh vật; đó được coi là nơi con
người chiêm nghiệm, ngẫm nghĩ về hành vi cuộc
sống của mình để sống tốt hơn, có ích hơn cho
cuộc đời. Vì vậy, không gian chùa chiền phải là
nơi cảnh vật thơ mộng trữ tình, kiến trúc Phật
giáo phải tạo nên một điểm nhấn về không gian
tâm linh, Tăng ni Phật tử của chùa phải là tấm
gương của lòng nhân ái, vô ngã và vị tha.
Cũng cần phải chú
trọng phát triển một loại hình du lịch tâm linh,
du lịch thiện nguyện để cảnh chùa, tính cách,
lối sống của Phật tử thu hút đông đảo du khách.
Đó chính là hoạt động truyền thông Phật giáo;
trong trường hợp này, bản thân vẻ đẹp, sự trang
nghiêm thanh tịnh của ngôi chùa, khu vường chùa,
lối sống từ bi hỷ xả của Tăng ni Phật tử là nội
dung thông điệp của Phật giáo gửi đến công chúng
thông qua du khách.
Tóm lại, mặc dầu
trong sự nghiệp giáo dục con người, triết lý từ
bi, vô vi xuất thế lấy bình yên làm cứu cánh đã
làm bớt đi tham vọng tiến thân, sống nhẫn chịu,
an phận thủ thường… ít nhiều mang yếu tố tiêu
cực, nhưng hệ thống tôn giáo – triết học Phật
giáo luôn chứa đựng nhiều yếu tố tích cực trong
việc giáo dục con người hướng thiện, góp phần
duy trì và phát huy những giá trị và nếp sống
đạo đức của con người Việt Nam cũng cần phải có
những biến đổi để thích ứng với tình hình mới,
song các giá trị truyền thống của dân tộc tiềm
ẩn trong con người Việt Nam vẫn cần phải được
phát huy. Để làm được điều đó rất cần đến sự
đóng góp quan trọng của Phật giáo.
Tiến sĩ Nguyễn
Văn Mạnh
CHÚ
THÍCH:
- Trường Đại
học KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội, Trung tâm NCTG đương
đại (2009), Văn Hoá, Tôn Giáo Trong Bối Cảnh
Toàn Cầu Hoá, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 233.
- Phạm Minh Hạc,
Nguyễn Khoa Điềm (CB) (2003), Vế Phát Triển và
Xây Dựng Con Người Trong Thời Kỳ Công Nghiệp Hoá
và Hiện Đại Hoá, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 5.
- Lương Ninh
(2009), Một Con Đường Sử Học, Nxb ĐH Sư Phạm, Hà
Nội, tr. 45.
- Trường Đại
học KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội, Trung tâm NCTG đương
đại (2009), Văn Hoá, Tôn Giáo Trong Bối Cảnh
Toàn Cầu Hoá, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 236.


|