Chữ Tâm Kia Mới
Bằng Ba Chữ Tài
Đào Văn Bình
Em yêu dấu,
Cụ Tiên Điền Nguyễn Du đã cô kết Truyện Kiều
bằng hai câu:
“Thiện căn kia bởi lòng ta,
Chữ ‘Tâm’
kia mới bằng ba chữ ‘Tài’.”
Vậy chữ Tâm là gì mà nó vượt trội và đáng quý
trọng hơn hẳn tài năng của con người?
Cội nguồn của chữ Tâm
1)Vì thiện căn vốn bởi lòng ta cho nên chữ Tâm
không phát xuất từ Thần Linh (God) mà nó phát
xuất từ bản chất thuần lương vốn có của con
người: “Nhân chi sơ tính bổn thiện”. Chữ Tâm
không do cầu xin, cầu nguyện, van vái, thờ cúng
mới có. Chính vì thế mà Lục Tổ Huệ Năng đã nói
rằng “bản lai vô nhất vật”. Cũng không cần phải
tuân theo lời răn dạy của bất kỳ một tôn giáo
nào mới có chữ Tâm. Chữ Tâm thuộc về tiên nghiệm
chứ không thuộc về hậu nghiệm.
Tuy nhiên chúng ta phải công nhận rằng nếu được
giáo dục và tu dưỡng thì chữ Tâm sẽ được bảo
bọc giữ gìn, tức không bị lu mờ, sẽ sáng tỏ
giống như tấm gương được lau chùi. Song điều đó
không có nghĩa là phải có giáo dục thì chữ Tâm
mới hiển lộ. Rất nhiều bộ tộc, rất nhiều người
chẳng thụ huấn một nền giáo dục nào mà chữ Tâm
cũng vẫn có. Ngay ở loài vật cũng vậy. Một con
ngựa đau cả tàu không ăn cỏ. Voi con bị bệnh
không đi được, voi mẹ ở lại quấn quít cho đến
khi nào voi con chết hẳn mới chịu bỏ đi. Một con
chịm bị đạn, đàn chim xà xuống kêu tiếng bi
thương cho đến khi biết chắc bạn mình đã chết
mới chịu bay đi.
2) Ngoài ra chữ Tâm cũng không liên quan gì đến
sự thông minh. Người thông minh có khi lại là
người ác độc nhất không biết chừng. Bằng cớ là
các dân tộc văn minh đã dùng sự thông minh của
mình để đi đô hộ, bóc lột, tàn sát, triệt hủy
tôn giáo, văn hóa của những dân tộc kém thông
minh hơn họ.
Nội dung của chữ Tâm là gì?
1) Đó là lòng biết xót thương (động tâm): Chẳng
hạn thấy người nghèo khó, hoạn nạn ta động lòng
trắc ẩn.
2) Đó là lòng ngay thẳng, thành thật: Người đời
thường nói: Tâm địa ngay thẳng tức không quanh
co, gian dối, che đậy, ngụy biện.
3) Đó là lòng cảm thông, tha thứ: Người đời
thường nói "chín bỏ làm mười".
4) Đó là lòng bao dung: Tức tâm địa rộng rãi,
tấm lòng quảng đại.
5) Đó là tấm lòng tốt (tấm lòng vàng): Biết an
ủi, chia xẻ, biết giúp đỡ.
6) Đó là tấm lòng từ bi: Chẳng hạn như tâm Phật
7) Đó là tấm lòng hỷ xả, cởi mở, không câu thúc:
Không thắc mắc, không thù dai, không hờn oán,
ghen ghét đố kỵ. Người đời thường nói: Bụng để
ngoài da.
8) Đó là tấm lòng hy sinh: Thương người như thể
thương thân
9) Đó là lòng biết chia sớt, bố thí. Thấy người
hoạn nạn thì thương. Câu nói này hàm ngụ tình
thương không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, màu
da. Cứ thấy người hoạn nạn thì thương.
10) Bằng chữ Tài thì mình nghĩ cho mình, nghĩ về
mình. Bằng chữ Tâm thì nghĩ về người, nghĩ đến
người. Bằng chữ Tài thì có kẻ được người thua.
Bằng chữ Tâm thì ai cũng như ai “Tứ hải giai
huynh đệ”, chẳng ai giầu ai nghèo, chẳng có cao
có thấp, chẳng có sang hèn.
11) Bằng chữ Tài thì cái Tôi, cái Ngã lồ lộ ra
đó. Bằng chữ Tâm thì cái Tôi, cái Ngã tan biến
mất và thể nhập vào tha nhân hay vào Đại Ngã.
Khi vua Sở nói rằng “Vua nước Sở mất ngựa thì
người nước Sở được ngựa.” là nhà vua đã nói
bằng cái Tâm, bằng sự an bình của toàn dân chứ
không bằng lý trí.
12) Bằng chữ Tài, cái Tôi hay con người chúng ta
thu hẹp lại nhỏ xíu và trở nên ích kỷ. Bằng chữ
Tâm con người chúng ta lớn tựa hư không.
13) Tài ở chỗ này nhưng chưa chắc đã tài ở chỗ
kia. Cái Tài tạo ra sự tranh đua, ghen tuông, đố
kỵ “chữ Tài liền với chữ Tai một vần”. Nhưng cái
Tâm thì ai cũng thương mến, do đó nó xuyên suốt,
vô ngại, ở đâu cũng dung thông được. Do đó cái
Tài thường hay chết yểu, còn cái Tâm thì bất tử.
Nếu nội dung của chữ Tâm là như vậy thì tận cùng
sâu thẳm của chữ Tâm cũng chính là chữ Tài. Cái
tài thu phục nhân tâm, tài đem lại hạnh phúc,
tình thương cho mình và cho muôn loài.
Thảm họa
của thế giới ngày nay là con người không sống
bằng chữ Tâm mà sống bằng sự cầu nguyện. Người
ta cầu nguyện Thần Linh để có thêm sức mạnh tiêu
diệt kẻ thù. Người ta van vái Thần Linh để hỗ
trợ cho sự chiến thắng, giành giựt của họ. Người
ta cầu nguyện, van vái Thần Linh để ban phát cho
họ có thêm nhiều của cải vật chất. Anh chưa thấy
người ta cầu nguyện để cho người khác cùng tiến
lên, cùng giàu có, hạnh phúc như mình, ngoại
trừ Phật Giáo.
Khi chúng ta cầu nguyện cho tất cả mọi người
được ăn được nói như chúng ta, được sung sướng
như chúng ta, được trí tuệ minh mẫn như chúng ta,
được thong dong tự tại như chúng ta, được kính
trọng như chúng ta đang được kính trọng.
Khi chúng ta đem tất cả sự thành công của mình
mà hồi hướng về tất cả, biết ơn tất cả rồi cầu
nguyện cho tất cả mọi người đều thành Phật… thì
chúng ta đã thực sự sống với chữ Tâm.
Nghi thức Hồi Hướng kết thúc mọi khóa lễ của chư
Tăng ni, Cư sĩ và Phật tử cho thấy người con
Phật không bao giờ lưu giữ lại cho mình cái gì,
mà chuyển tất cả những thứ đó đến chúng sinh ở
mười phương cõi để cùng tận hưởng những phúc lợi
như mình.
“Nguyện đem
công đức này,
Hướng về khắp tất
cả,
Đệ tử và chúng
sinh,
Đều trọn thành
Phật đạo.”
Nếu ai cũng biết “hồi hướng” như vậy thì một
chiến công là sự hy sinh xương máu của tướng sĩ từ
trên xuống dưới. Sự cường thịnh của một quốc gia
là nỗ lực vun bồi của toàn dân từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Sự thành công của nền giáo dục
là do tấm lòng yêu nghề của quý thầy cô, tinh
thần trách nhiệm của phụ huynh, học sinh, sự hỗ
trợ của chính quyền và xã hội, và đó cũng là
niềm hãnh diện chung của quốc gia. Nói xa hơn
nữa, sự tu hành chứng đắc của một vị sư cũng là
nhờ ơn chư Phật, chư Tổ trong quá khứ, các bậc
thiện tri thức trong hiện tại, sự cúng dường của
hàng Phật tử khắp nơi và công lao gìn giữ an
toàn xã hội để các vị có nơi chốn an tĩnh tu
hành.
Cho nên trong kinh điển, các hàng Bồ Tát chứng
đắc vì có trí tuệ lớn, đều hồi hướng công đức
đến muôn loài chúng sinh, vừa để nhớ ơn, vừa để
diệt trừ “ngã tướng” trong con người mình.
Chữ Tâm
vĩ đại như thế đó. Vậy thì anh và em cùng sống
với chữ Tâm chứ đừng sống với chữ Tài em nhé!
Đào Văn Bình
(California 13/2/2012)
|