Thiền Định hay Hành Động?
Tài liệu giảng dạy của Viện Đại
Học Phật Giáo Âu Châu
Hoàng Phong
chuyển ngữ
Phép "Thiền định" bằng tư thế ngồi yên
tương đối được nhiều người biết đến. Đấy là
phương cách thích hợp nhất giúp người tu tập
phát huy các phẩm tính của tâm thức: đấy là cách
ngồi, giữ yên lặng, chọn một nơi kín đáo... Thế
nhưng ngoài những lúc Thiền định ra thì người tu
tập lại phải hội nhập với cuộc sống bình thường,
trở về với các sinh hoạt thường nhật, tất nhiên
là không tránh khỏi phải hành động... Vậy phải
làm thế nào bây giờ?
Một bản kinh thật chủ yếu là Tứ
Niệm Xứ (Satipattana-sutta) khuyên
phải tập trung sự chú tâm và quán thấy vào từng
cử chỉ "thông thường": chẳng hạn như "khi đi
tới hay đi lui..., khi nhìn thẳng hay nhìn chung
quanh..., khi co hay duỗi thẳng chân tay..., khi
ăn, khi uống, khi nhai hay đang lúc tận hưởng
thức ăn..., khi đại tiện hay tiểu tiện..., khi
đang bước hay đứng lại, khi đang ngồi, đang chìm
vào giấc ngủ, hay lúc vừa thức giấc, khi mở lời
để nói hay giữ sự câm nín..., thì người tu tập
cũng đều phải thực thi với tất cả sự chú tâm và
quán thấy". Tuy nhiên cách tu tập như vừa kể
gần như chỉ có thể thực hiện được trong khi tham
gia các khóa tu học thật tích cực!
Vậy thì ta phải làm gì đây trong cuộc sống
thường nhật, nhất là đối với những người thế
tục, "một người chủ gia đình" chẳng hạn, họ còn
phải lo toan đủ mọi trọng trách và đảm đang bổn
phận đối với xã hội, gia đình, nghề nghiệp?
Đức Phật không phải là không nhìn thấy những khó
khăn ấy và Ngài đã đưa ra một số lời khuyên dạy
- tùy theo kinh sách sẽ gồm có bốn hay năm lời
khuyên dạy khác nhau - nhằm đưa ra một "căn bản
thiết yếu cho việc luyện tập", căn bản này còn
được gọi là "con đường luyện tập" (sikkha-pada).
Những lời khuyên dạy đó hoàn toàn thuộc vào nền
giáo huấn đặc thù của Phật Giáo, và trong số này
có thể nêu lên "ba điều khuyên dạy" mà
nhiều người biết đến, đấy là những gì được nêu
lên trong một tiết thơ trong
Kinh Pháp Cú
(Dhammapada): "Không làm
điều xấu, thực hiện điều thiện, tinh khiết hóa
tâm thức của chính mình, đấy là giáo huấn của
Đức Phật".
Vậy "Thiền định" là gì?
"Thiền
định", nếu hiểu theo quan niệm "dịch thuật tức
phản bội", thì quả thật là một món quà vô cùng
khó nuốt mà nền giáo huấn cửa Đức Phật đã mang
tặng cho thế giới Tây phương! Các chữ
bhavanâ, samâdhi hay dhyâna
trong ngôn ngữ Ấn Độ (dù đấy là tiếng Phạn hay
tiếng Pa-li) đều được người Tây phương dịch là
"meditation" ("suy ngẫm"). Quả thật không có gì
sai lầm hơn vì chữ "suy ngẫm" (meditation) gần
như hoàn toàn không mang ý nghĩa nào của các chữ
Phạn và Pa-li vừa nêu lên. Các chữ Phạn và Pa-li
này dùng để chỉ định các thể dạng của tâm thức,
và các thể dạng này thì lại không hề phản ảnh ý
nghĩa của chữ "suy ngẫm" (meditation) trong ngôn
ngữ Tây phương, vì chữ này (suy ngẫm -
meditation) chỉ có nghĩa là "suy tư về một thứ
gì đó để đem ra áp dụng vào cuộc sống của mình"
- và đấy cũng là cách định nghĩa của chữ
"meditation" theo truyền thống của Thiên Chúa
Giáo.
Chữ Bhavanâ (Quán tưởng) nêu lên sự
"phát huy" các phẩm tính của tâm thức, tức những
gì thường bị Vô minh và Ảo giác che lấp. Samâdhi
(Định) là
khả năng "chú tâm" của tâm thức không bị các tư
duy đối kháng thông thường (dưới hình thức xúc
cảm và khái niệm) làm cho nó bị "xao lãng". Sự
chú tâm đó giúp cho tâm thức hướng thẳng vào một
hiện tượng duy nhất trong khi tập luyện về sự
"tĩnh lặng" (samatha) - đấy là hiện tượng
duy nhất thường xuyên "hiển hiện trở lại" - hoặc
là chú tâm vào tất cả các hiện tượng hiển hiện
liên tiếp nhau qua phép tập luyện về "sự quán
thấy sâu xa" (vipassana). Chữ Dhyanâ
(Thiền-na) là một thuật ngữ mà trên phương diện
kỹ thuật được dùng để chỉ định một hình thức
"lắng sâu" phát sinh từ phép tập luyện về sự
"tĩnh lặng" (samatha), thế nhưng sau đó thì
lại được dùng với một ý nghĩa tổng quát hơn -
nhất là tại Trung Quốc và Đông Nam Á và gọi đấy
là "chan' na", sau đó thì biến dạng thành
"chan" hay "zen" - và được xem là
đồng nghĩa với chữ bhavanâ hay samâdhi.
Cả ba chữ trên đây (Bhavanâ, Samâdhi,
Dhyanâ) không hề mang ý nghĩa nào nêu lên một sự
"suy tư mãnh liệt", lại càng không mang ý
nghĩa "phóng tưởng vào một thứ gì đó",
thí dụ như "âm mưu (méditer/meditate) một kế
hoạch ám hại " chẳng hạn. Đấy cũng là ý nghĩa
chính yếu nhất của
chữ La-tinh "meditatio"! (trong ngôn ngữ Tây
phương động từ méditer/meditate mang nhiều nghĩa
khác nhau như: nghiền ngẫm, suy nghiệm, âm
mưu..., và tuyệt nhiên không mang một ý nghĩa
nào tương đương với ý nghĩa của chữ Thiền định -
bhavanâ. Tuy nhiên vì từ lâu người Tây Phương đã
dịch sai các chữ bhavanâ, samâdhi, dhyanâ là
meditation cho nên qua thời gian cách dịch đó đã
trở thành quen thuộc và nhiều người cũng đã bắt
đầu "hiểu" chữ này "đồng nghĩa" với chữ "Thiền
định" (bhavanâ) trong Phật Giáo. Cũng xin phép
được ghi chú thêm là chữ bhavanâ dịch sang tiếng
Tây Tạng là sgom-pa và có nghĩa là "tập
cho quen dần"). Như thế, nếu không kịp suy
nghĩ mà cứ hiểu đại khái là "rút lui khỏi thế
giới này" là để "suy nghĩ mãnh liệt" hay để
"phóng tưởng vào một thứ gì đó", thì nhất định
đấy là một sự hiểu biết sai lầm, vì "Thiền
định" thật ra có nghĩa là "phát huy" các phẩm
tính của một tâm thức không bị các phản ứng từ
cách suy nghĩ thông thường làm cho nó bị "xao
lãng", nói cách khác thì đấy là cách phát huy sự
chú tâm cảnh giác (sata/smrti) và mở rộng sự
hiểu biết (pannâ/prajnâ).
Hơn nữa, cũng chính vì thế mà nền giáo
lý Phật Giáo cũng đã ý thức được rằng sự quan
sát dựa vào sự "chú tâm và quán thấy" các hiện
tượng vật chất cũng như tâm thần, không thể chỉ
giới hạn duy nhất trong những khóa tu học tích
cực, và bằng tư thế ngồi tĩnh lặng. Thật vậy,
mỗi khoảnh khắc của sự sinh hoạt đều phải trở
thành một khoảnh khắc thực hành và tập luyện
giúp "nhìn thấy mọi vật thể đúng như thế"! Điều
ấy cũng cho thấy là kinh sách xưa không phải là
không có lý khi gọi các người tu hành là các
"người luyện tập" (sekka)..., và sự luyện tập đó
chỉ chấm dứt khi nào người tu hành đã đạt được
Giác Ngộ. Thế nhưng cũng phải hiểu rằng việc
luyện tập đòi hỏi một khả năng cao độ như thế
tất nhiên cũng phải cần đến một sức cố gắng
tương xứng mới có thể hoàn tất được. Thường thì
ít có ai gặt hái ngay được thành công khi mới
khởi sự, mà phải trải qua nhiều giai đoạn, phải
thăng tiến một cách tuần tự và có phương pháp,
phải bước từng bước một, và sau đó thì mới có
thể thành công: "Từng
bước, từng bước một, từ khoảnh khắc này sang
khoảnh khắc khác, một người khôn ngoan phải tinh
khiết hóa các thứ ô nhiễm của chính mình, tương
tự như một người thợ kim hoàn loại bỏ những chất
bẩn để tinh luyện bạc" (Kinh Pháp Cú,
tiết 239).
Sự thăng tiến tuần tự
Cách "Giảng dạy theo phương pháp
tuần tự" của chư Phật vẫn thường hay được
nhắc đến. Đấy là một phương pháp thăng tiến dần
dần nhằm giúp cho người Phật tử ý thức được
trong từng giai đoạn một, các nhân tố tạo ra
hoàn cảnh hiện tại của mình và các hậu quả liên
hệ (tức là "phương cách hiện hữu" bình thường
của mình trong vòng luân hồi tử sanh (samsarâ),
và sau đó sẽ giúp người Phật tử ấy nhận ra sự
ích lợi cần phải thay đổi thái độ tâm thần đó
của mình, hầu tạo ra những điều kiện thích nghi
hơn để mang lại một sự thăng tiến hiệu quả hơn
nhằm thực hiện sự "tinh khiết hóa" thật sự cho
tâm thức, bằng cách phát huy những khả năng "nhìn
thấy mọi vật thể đúng như thế", tức có nghĩa
là không còn sự kéo dài (anicca/anitya - vô
thường), không còn sự bất toại nguyện
(dukkha/duhkha - khổ đau) - và trói buộc
(anatta/anâtman - "tự-nó-không-hiện-hữu" hay
vô-ngã). Những gì trên đây được tóm lược trong
một tiết rất nổi tiếng trong kinh Pháp Cú
(tiết 183) như sau:
"Tránh làm điều xấu (pâpa), thực
hiện điều thiện (kusala),
Tinh khiết hóa tâm thức của chính mình, đấy là giáo huấn
của Đức Phật".
Ba điều đó không phải là một thí dụ
duy nhất có thể tìm thấy trong kinh sách Phật
Giáo nguyên thủy. Một bản kinh bằng ngữ tự Pa-li
- Accâyika-sutta (Anguttara-nikaya,
3-93) - cũng có nêu lên một khái niệm gọi là "ba
điều khẩn cấp" cần phải thực hiện như sau:
"Một người nông dân chủ gia đình có ba việc khẩn
cấp phải làm.
Hắn phải nhanh chóng cày và bừa thửa ruộng của
mình; hắn phải nhanh chóng gieo hạt; hắn phải
nhanh chóng tưới ruộng.
Nói thế [không có nghĩa là] người nông dân có
khả năng và quyền lực [để bảo rằng]: "Những gì
tôi gieo trồng phải mọc lên ngày hôm nay, phải
đơm hạt ngày mai, và phải chín vào ngày hôm
sau". Cần phải có đủ thời gian để những gì người
nông dân gieo trồng có thể nẩy mầm, đơm hạt và
chín.
Cũng thế, có ba công việc khẩn cấp mà người Phật
tử phải thực hiện. Người ấy bắt đầu luyện tập
[sikka] để đạt được một kỷ cương tu tập cao hơn
[adhi-sîla, tăng thượng "giới"], sự tập luyện
này lại tạo ra một cấp bậc tâm thức cao hơn
[adhi-citta, tăng thượng tâm], sự tập luyện này
lại tạo ra một cấp bậc trí tuệ cao hơn
[adhi-pannâ, tăng thượng trí].
Nói thế [không có nghĩa là] người Phật tử có khả
năng và quyền lực [để bảo rằng]: "Nhờ không bám
víu, tâm thức tôi phải được tẩy uế khỏi mọi ô
nhiễm trong ngày hôm nay, ngay ngày mai hay ngày
hôm sau". Phải đủ thời gian cần thiết để tâm
thức được tẩy uế khỏi mọi ô nhiễm bằng cách
không bám víu, nhờ vào việc tập luyện mang lại
một cấp bậc giới luật cao hơn, một tâm thức cao
hơn và một trí tuệ cao hơn".
Hai cách trình bày về khái niệm "ba
điểm" trên đây có thể đặt song hành với nhau, và
có thể sử dụng thuật ngữ "luyện tập" (sikka) để
phối hợp cả hai, hơn nữa sự "luyện tập căn bản
này" (sikka-pada), thông thường còn được gọi là
"Ngũ Giới" - tức các giới luật mà bất cứ người
Phật tử nào là "chủ gia đình" cũng phải tuân thủ
và đem ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày...
Các "giới luật" thường được trình bày
trong một số kinh sách ghi chép những lời giảng
huấn mà Đức Phật dành riêng cho những người "chủ
gia đình" bình thường, tức những người không mấy
khi quan tâm đến những mục tiêu cao xa như sự
Giác Ngộ và Giải Thoát, mà họ chỉ đơn giản nhắm
vào chủ đích "cải thiện cuộc sống trong thế
giới ta-bà" này của họ cho được khả quan
hơn..., và đấy cũng là những gì mà thông thường
người Phật tử xướng lên vào các dịp lễ ở chùa,
kể cả đem ra tụng niệm hằng ngày, hầu tự nhắc
nhở mình phải tuân thủ và đem ra thực hành thật
nghiêm túc những gì mà Đức Phật đã khuyên dạy
họ... Các điều này cũng thấy nêu lên trong tám
điều gọi là "Bát Chánh Đạo của những người Cao
Quý" (con đường chân chính gồm tám nhánh của một
thánh nhân), và đấy mới thật là phép tu tập toàn
vẹn và hoàn hảo giúp đi thẳng vào giáo lý. Có ba
hoàn cảnh khác nhau tương quan với ba cấp bậc
thúc đẩy khác nhau, còn gọi là ba cách diễn đạt
khác nhau.
Nếu muốn hiểu được ba cấp bậc ấy là gì
thì phải luôn nhớ đến một thuật ngữ chủ yếu nhất
trong giáo lý Phật Giáo: đấy là sự chú tâm, tức
động cơ thúc đẩy làm nền tảng và mang lại nhiều
ý nghĩa hơn cho từng hành động trên
thân xác, cho từng ngôn từ và từng tư duy trong
tâm thức. Trong cấp bậc thứ nhất (sơ đẳng), sự
chú tâm thuộc vào loại "thông thường", đấy là sự
chú tâm hướng vào "thế giới thế tục" (ta-bà).
Trong thế giới đó người tu tập không hề muốn xa
lánh vĩnh viễn nó mà chỉ nghĩ đến việc cải thiện
nó cho khả quan hơn (được giàu sang hơn, khoẻ
mạnh hơn, hạnh phúc hơn...) và dù sao thì đấy
cũng là cách "chuẩn bị một mảnh đất" thuận lợi
hơn cho sau này. Vào cấp bậc thứ hai, sự chú tâm
nhắm vào sự toàn thiện, có nghĩa là "gieo
trồng", đợi đến khi đơm quả và chín muồi, mang
lại những điều kiện thuận lợi giúp cho việc tu
tập được hoàn toàn hiệu quả: đấy là cách nhắm
vào sự Giải Thoát. Vào cấp bậc thứ ba, thì
"người tu tập" đã hội đủ các điều kiện thuận lợi
và biết bảo toàn chúng, biết tưới thửa ruộng của
mình hầu giúp cho quá trình (gieo trồng) mà
mình đang thực hiện được phát triển một cách
trọn vẹn giúp cho các phẩm tính "mọc lên" (tương
tự như các hạt giống gieo trồng): đấy là cách
hành động của những người "Cao Quý" (tức khác
hơn với những người chỉ nghĩ đến cải thiện cuộc
sống của mình trong thế giới ta-bà)!
"Cày bừa" hay "tránh không làm điều xấu": đấy là
cách tuân thủ giới luật.
"Tránh không làm điều xấu" có thể xem
như là cách sửa soạn thửa ruộng... Người nông
dân cày bừa thửa ruộng, cuốc bỏ cỏ dại làm "ô
uế" thửa ruộng và lấn át hoa mầu sắp gieo trồng.
Để tránh các mối hiểm nguy có thể xảy ra, hắn
chăm lo dọn dẹp thửa ruộng (đây là cách viết cô
đọng và "chơi chữ": so sánh giữa nguy hiểm trong
tâm thức và cỏ dại trong thửa ruộng. Xin chú ý
cách viết rất khéo này để hiểu được ý nghĩa
trình bày trong các câu tiếp theo sau đây).
Ta-bà là thế giới mà nơi đó khổ đau và sự bất
toại nguyện mọc lan tràn như cỏ dại; và nào có
ai lại muốn chịu đựng cảnh tượng đó... Thật thế
nào có ích lợi gì khi làm cho chúng mọc tràn ra
thêm bằng các hành động mang lại khổ đau? Trong
trường hợp này cái xấu nêu lên là những khổ đau
do người khác tạo ra mà mình phải gánh chịu (chữ
pâpa trong ngôn ngữ Pa-li có nghĩa tương đương
với chữ patior hay passio
(passion) trong tiếng La-tinh và chữ này thì có
nghĩa là "cái gì mà ta phải chịu đựng và nó mang
lại khổ đau"...) (chữ passion có thể dịch sang
tiếng Việt là sự đam mê).
Vào cấp bậc thứ nhất, hành động
"tránh" (tức không nên làm) có nghĩa là không
được tạo ra cho mình và cho người khác những gì
mang lại sự ích kỷ (chỉ biết nghĩ đến mình)
trong cuộc sống tập thể: "Không được tạo ra
cho người khác những gì mà mình không muốn người
khác tạo ra cho mình"! Đấy là những gì (đơn
giản và thiết thực) mà Đức Phật đã từng thuyết
giảng cho một đám nông dân, và chính họ cũng tự
thú nhận về họ như sau: "Chúng con là những
người mang đầy tham vọng, đầy ước mơ, đầy dự
tính, chẳng hạn như muốn được sống chung với con
cháu đầy đàn, được trang sức bằng những vòng hoa
thơm, bôi nước hoa, thoa dầu, và tái sinh vào
cảnh giới hạnh phúc hơn...":
"Này các người chủ gia đình, hãy tưởng tượng một
người suy nghĩ như thế này:"Tôi thích được sống
và không muốn chết. Tôi thích được hân hoan và
kinh sợ đớn đau. Nếu có ai cướp mất sự sống của
tôi thì đấy quả là một chuyện không thích thú gì
và cũng không vui sướng gì cho tôi. Nếu tôi cướp
đi sự sống của người khác, thì đấy là chuyện
không thích thú gì và cũng không vui sướng gì
cho người ấy, bởi vì hắn không muốn người ta
giết hắn, và hắn rất thích được hân hoan và kinh
sợ đớn đau. Vì thế, nếu một việc không thích thú
gì và cũng không vui sướng gì cho tôi thì đấy
cũng là một việc không thích thú gì và cũng
không vui sướng gì cho bất cứ một người nào
khác. Vậy thì nếu đấy là một việc không thích
thú gì và cũng không vui sướng gì cho tôi, thì
tại sao tôi lại bắt người khác phải chịu như
thế?"
Tóm lại là nếu hắn biết nghĩ như thế thì hắn sẽ
tránh không giết hại các chúng sinh khác. Hắn
khuyên bảo người khác cố tránh không được giết
hại chúng sinh. Hắn nói lên việc ấy và cổ vũ
việc cấm đoán ấy"
(Kinh Veludvâreyya Sutta,
Samyutta-Nikaya, XI.1.7).
Những gì trình bày trên đây cũng tương
đương với một số các "giới luật cấm đoán" khác:
"Nếu có một người cố tình lấy cắp một vật nào
đó của tôi và tôi không hề cho hắn, thì đấy là
một việc không thích thú gì và cũng không vui
sướng gì cho tôi"... Vì thế hắn tránh không lấy
vật gì mà người ta không cho hắn. 'Nếu có một
người giao du tính dục với các người vợ của tôi,
thì đấy là một việc không thích thú gì và cũng
không vui sướng gì cho tôi'... Vì thế hắn tránh
không phạm vào việc tính dục bất chính. 'Nếu có
một người nói dối làm tổn hại đến sự an vui của
tôi, vu khống để chia rẽ tôi và bạn bè của tôi,
hắn luôn miệng nói với tôi những thứ vô tích sự,
thì đấy là một việc không thích thú gì và cũng
không vui sướng gì cho tôi'... Vì thế hắn tránh
không nói dối, không nói những lời vu khống,
tránh những chuyện vô tích sự và những lời phù
phiếm...".
Dầu sao đối với cấp bậc trên đây,
người ta chưa có thể bảo rằng đấy là đã bắt đầu
tu tập đúng theo "nền giáo huấn đặc thù của Đức
Phật"! Bởi vì đấy chỉ là những gì giúp ý thức
được cái xấu do các hành động thông thường của
ta tạo ra và hậu quả do những hành động ấy mang
lại, tức là các " nghiệp xấu". Cũng không phải
vì thế mà các thứ ấy tượng trưng cho một sự cấm
đoán hay một phán lệnh phải tuân thủ một cách mù
quáng, bởi vì hành động "tránh" đã xuất phát từ
sự lý luận và suy nghĩ, và mỗi người đều có thể
tự mình thực hiện được việc ấy. Ngoài ra vào cấp
bậc này thì cũng chưa nhất thiết cần phải chủ
động và giới hạn các loại "tư duy xấu" (trong
tâm thức)... mà chỉ cần tránh không được phép
làm các việc xấu (trong cuộc sống thường nhật),
có nghĩa là không được thực thi các hành động có
thể mang lại khổ đau cho người khác. Tóm lại
không cần phải là một Phật tử mới biết hành động
như thế: đấy chỉ là thái độ hành xử đúng với
lương tri!
"Gieo trồng" hay "Làm việc lành": đấy là cách
luyện tập tâm thức.
"Nên làm điều lành" (kusala) đấy là
lời khuyên dạy giúp người Phật tử bước thẳng vào
việc tu tập. "Ngũ Giới" tự nó đã là một phép tu
tập tâm linh đích thật: "Tôi xin hoàn toàn xả
thân (samâdiyâmi) vào việc tu tập căn bản
(sikkhâpadam) hầu không còn tìm thấy sự
thích thú trong việc...(veramanî).
Khi xướng lên những lời đó, người Phật
tử tự hứa sẽ từ bỏ lối sống tầm thường trước đây
của mình, một cuộc sống chỉ biết chạy theo sự
"thích thú". Sự chú tâm và động cơ thúc đẩy của
người ấy không còn hướng vào cái thế giới Ta-bà
"tầm thường" này nữa: người ấy đã nhìn thấy các
thứ hiểm nguy và hiểu được "những lợi ích của
việc dứt bỏ" thế giới này (xin chú ý vào giai
đoạn này người tu tập đã vượt được cấp bậc tu
giới trên đây và đang bước vào giai đoạn
tu định).
Vào cấp bậc này, không còn chuyện phải
quan tâm "tránh không được làm cho người khác
phải..." mà phải dồn mọi nỗ lực của mình để quan
sát với một sự chú tâm cao độ vào các mục tiêu
của mình: những thứ dục vọng nào đang phản ảnh
trong từng cử chỉ của mình? Có phải tôi đang là
một món đồ chơi vô ý thức cho sự tham lam
(lobha), sân hận (dosa), xao lãng (moha), tức là
ba thứ Nọc độc của tâm thức hay không? Từng hành
động trong cuộc sống thường nhật của tôi (mỗi cử
động, mỗi lời nói và mỗi tư duy) đều phải trở
thành một đối tượng cho sự quan sát và cảnh giác
của tôi:
- cầu xin cho sự tham lam biểu lộ
bằng sự chiếm hữu của cải vật chất [giới
luật thứ 2 (adinn'âdânâ): tức chiếm hữu những gì
người ta không cho mình], không còn xảy đến
với tôi nữa.
- cầu xin cho sự thèm khát vô độ
nhằm làm thỏa mãn các giác cảm của tôi - dù đấy
là sự thèm khát tính dục, thăm ăn hay bất cứ
những thứ "thích thú giác cảm" nào khác - bằng
bất cứ cách nào, kể cả các cách khéo léo
(khôn ngoan, kín đáo) nhất [giới luật thứ
3 (kâmesu micchâ-câra): tức các con đường "lệch
lạc" (méo mó) của thích thú giác cảm], không
còn xảy đến với tôi nữa.
- cầu xin cho sự ham thích nhằm nâng
cao giá trị của mình bằng cách kể chuyện khôi
hài hay tài hùng biện của tôi [giới luật thứ
4 (musa-vâdâ): tức các lời nói không thích
nghi], không còn xảy đến với tôi nữa.
- cầu xin cho sự sân hận phát lộ
bằng bạo lực đối với chúng sinh [giới luật
thứ 1 (pânâtipâtâ): tức hành động bạo ngược
đối với các chúng sinh hàm chứa sức sống] không
còn xảy đến với tôi nữa.
- cầu xin cho sự nói dối hay vu
khống [giới luật thứ 4 (vasa-vâdâ): tức các
lời nói không thích nghi], không còn xảy đến
với tôi nữa.
- cầu xin sự xao lãng (phân tâm)
vì sử dụng các chất độc hại khiến tôi "đánh
mất sự tự chủ" [giới luật thứ 5
(surâ-meraya-majja): tức dùng rượu mạnh và các
thức uống khác làm say sưa tạo ra sự hoang
mang], không còn xảy đến với tôi nữa.
Những gì trên đây là cách "gieo trồng"
trong tâm thức các hạt giống tốt của sự chú tâm
và quán thấy. Những gì "hữu hiệu" (kusala - điều
lành) theo đúng với nguyên nghĩa của nó là những
gì được thực thi bởi "một người hiểu biết", tức
là một Phật tử đã từng được "học hỏi", đã từng
được "nghe giảng" về những lời giáo huấn của Đức
Phật, biết quý trọng những lời giáo huấn ấy,
biết ghi khắc những điều ấy trong tâm, biết đem
ra để đối chiếu với các sự kiện bên ngoài, biết
nghiền ngẫm ý nghĩa và chấp nhận những lời giáo
huấn ấy (cách trình bày này được dựa vào kinh
Canki-sutta). Một người Phật tử như thế sẽ
tách ra khỏi đám nông dân được xem như "những
người còn đầy tham vọng, ước mơ, dự kiến...".
Người Phật tử ấy bắt đầu nhìn thấy sự ích lợi
trong việc cố gắng "luyện tập, quán xét các sự
kiện và phát động lòng hăng say" (Kinh
Canki-sutta)
Dầu sao thì sự hiểu biết đó
(pannâ/prajnâ) vẫn còn rất là "thế tục", liên hệ
đến cách suy nghĩ mang tính cách trí thức như:
phán xét, cân nhắc, phân biệt..., tức là cách
"tìm hiểu nguồn gốc" (đây cũng là nghĩa từ
chương của chữ pannâ/prajnâ - bát nhã) làm phát
sinh ra các hành động của mình, và các động cơ
đích thật đã thúc đẩy mình, một cách "đúng như
thế". Người Phật tử ấy luyện tập để không còn tự
nhận diện mình là các hiện tượng ấy: "Cái này
không phải là tôi, không phải cái của tôi, không
phải cái 'Ngã' của tôi", bởi vì đấy chỉ là
các tư duy như thế, các hành động như thế, các
ngôn từ như thế, chúng chỉ là các hậu quả phát
sinh từ nhiều điều kiện đã có từ trước
(kamma/karma, nghiệp), liên kết với nhau để hình
thành, sở dĩ những thứ ấy phát hiện trở lại chỉ
vì chính mình không đủ sức phát huy được sự cảnh
giác và quán thấy...
Luyện tập bằng cách tuân thủ "các giới
luật" (ngũ giới) như trên đây một cách toàn vẹn
và hoàn hảo vượt hẳn lên trên tính cách đơn giản
của "những giới cấm" (tức không được phạm vào
việc này hay việc nọ...) mà rõ ràng đấy là "sự
phát huy" (bhavanâ) những phẩm tính của tâm thức
mà trước đây ta không hề chú ý đến chúng. Đấy là
cách "Thiền định" ("meditation") bằng hành động
(xin chú ý là chữ "Thiền định" - "meditation" -
trong trường hợp này phải được đặt giữa hai
ngoặc kép...), bởi vì cách "Thiền định" ấy được
đem áp dụng vào các "hành động" của tôi trong
cuộc sống thường nhật. Cách "Thiền định" đó còn
có thể vượt xa hơn cả giai đoạn chuẩn bị (sơ
khởi) cho việc luyện tập bằng tư thế ngồi tĩnh
lặng, bởi vì cách "Thiền định" tích cực (bằng
hành động) có thể tạo ra những ảnh hưởng tác
động thật sâu vào cuộc sống thường nhật: có
nghĩa là các giới luật khi đã được hiểu chính
xác và đem ra áp dụng đúng đắn sẽ là một cách
phát huy tâm thức vượt xa hơn cả phép luyện tập
bằng cách ngồi yên một chỗ..., và đấy cũng là
một cách phát lộ trong từng giây phút một (tức
mang tính cách liên tục không như cách Thiền
định chỉ thực hiện trong những lúc ngồi yên) sự
dấn thân của ta trên Con Đường Trung Đạo - giúp
cho ta tránh khỏi phải "lang thang" như một
người mù trong thế giới ta-bà này [danh từ
samsâra (ta-bà) phát xuất từ động từ
samsarati và nguyên nghĩa của chữ này là đi
hay bước mà không biết là mình đang bước đi
đâu].
"Tưới" hay "Tinh khiết hóa tâm thức": đấy là
cách luyện tập trí tuệ
Trong giai đoạn cuối cùng người Phật
tử phải nỗ lực và kiên trì "tinh khiết hóa tâm
thức" mình. Tuy nhiên đấy cũng chỉ tương tự như
trường hợp của người nông dân tuy chăm lo vun
xới thửa ruộng của mình thế nhưng không "có
một quyền lực nào hay một sức mạnh nào [để bảo
rằng]: 'Những gì tôi gieo trồng phải mọc lên
trong ngày hôm nay, phải đơm hạt vào ngày mai,
và phải chín vào ngày hôm sau...". Người
Phật tử tuy nỗ lực và kiên trì thế nhưng không
phải vì thế mà có ngay một quyền lực hay sức
mạnh nào [để bảo rằng]: "Bằng sự buông xả
(tức không bám víu) tâm thức tôi phải được
tẩy uế khỏi mọi ô nhiễm vào ngày hôm nay, ngày
mai hay ngày hôm sau". Phải đủ thời gian cần
thiết để tâm thức có thể loại bỏ được mọi ô
nhiễm".
"Một người nhờ vào sự tập luyện
kiên trì về phép buông xả, thì một ngày nào đó
sẽ "tự mình quán nhận được hiện thực trong một
cấp bậc cao thâm nhất, người ấy nhờ vào sự hiểu
biết có thể đi sâu vào từng khía cạnh của hiện
thực và nhìn thấy được chính nó. Tuy nhiên, ngay
cả trong cấp bậc này, dù đã phát lộ được sự hiểu
biết - hay sự nhận thức - về hiện thực, thế
nhưng vẫn chưa đạt được sự thực hiện hiệu quả
(trực tiếp) về hiện thực (...). Sự thực
hiện về hiện thực chỉ có thể đạt được bằng cách
lập đi lập lại, phát huy và luyện tập kiên trì
quá trình tu tập như trên đây" (Kinh
Canki-sutta).
Sự thực hiện đó chỉ xảy ra "khi nào
thời gian đã đến" và được gọi là "Mở mắt để nhìn
thấy Đạo Pháp" (tức nhìn thấy hiện thực) hay còn
gọi là "Bước vào
Dòng Chảy" (có nghĩa là đạt được sự hiểu biết về
bản chất của hiện thực "là như thế", tức bước
vào sự hiểu biết siêu việt về bản chất đích thật
của các vật thể). Sự thực hiện ấy sẽ biến một
Phật tử bình dị trở thành một Phật tử Cao Quý
(ariya/arya - thánh nhân). Người ấy đạt được một
sự hiểu biết "siêu-thế-tục" tức trí tuệ
(pannâ/prajnâ) đúng với ý nghĩa cao siêu nhất
của thuật ngữ này - tức không phải là sự vận
hành đơn giản của lý trí giúp quán xét các xung
năng của "nghiệp" - mà đúng hơn đấy là sự hiểu
biết thật sự về nguồn gốc của tất cả mọi hiện
tượng: tức một tổng thể gồm các điều kiện (cơ
duyên) luôn luôn biến động. Sự hiển lộ của thể
dạng hiểu biết "siêu-thế-tục" đó sẽ phá vỡ "sự
tin tưởng vào tính cách cá thể" (cái Ngã) và
giúp cho người Phật tử có thể quả quyết rằng:
"Cái này không phải tôi, cái này không phải của
tôi, cái này không phải cái "Ngã" của tôi".
Bắt đầu từ đó, người Phật tử lại tiếp tục
tập luyện thêm bằng cách "lập đi lập lại, phát
huy và thực hành quá trình đó", đúng theo những
gì được nêu lên trong "Con Đường gồm Tám Nhánh
(Bát Chánh Đạo) của những người Cao Quý".
"Ngũ giới" cũng được nói đến trong Bát
Chánh Đạo, thế nhưng lại được trình bày bằng ba
tên gọi khác nhau là: hành động đúng, ngôn từ
đúng và phương tiện sinh sống đúng (chánh
nghiệp, chánh ngữ, chánh mệnh). Tĩnh từ "đúng"
(samma/samuak - chánh) cũng được dùng để chỉ một
vị Phật "hoàn toàn viên mãn"
(samma/samyak-sambuddha, Tam Miệu Tam Phật Đà
hay Chính đẳng Giác Phật). Tóm lại cấp bậc này
vượt rất xa so với cách giữ giới chỉ gồm có việc
"tránh" (tức "không được làm")..., hoặc với cách
quan sát các mưu tính (tác ý) trong tâm thức của
mình...
Trong
cấp bậc này, ta bắt đầu biết sống và ý thức được
từng hành động mà mình thực thi và xem đấy là
một cách phát lộ sự xả-bỏ (không bám víu),
không-xác-định (không diễn đạt) gì cả xuyên qua
từng hành động, ngôn từ và tư duy của mình.
Trong từng khoảnh khắc một, "người biết luyện
tập" luôn đem ra sử dụng sự chú tâm và sự quán
thấy của mình, không còn để lại trong tâm thức
một một khoảng trống nào (một chút sơ hở nào)
khiến cho ảo giác có thể tạo ra sự "tin tưởng về
các đặc tính cá thể" (cái Ngã). Và khi nào thời
gian đã đến, thì sự thực hiện hữu hiệu về hiện
thực sẽ hiển hiện ra. Đấy chính là sự Giải
Thoát: tức "những gì phải thực hiện đã được
thực hiện, không có gì còn lại để thực hiện nữa",
cách phát biểu trên đây là dựa vào kinh sách. Và
đấy cũng gọi là "tiếng rống của con sư tử", tức
tiếng thét vang của người Phật tử khi nhận
thấy mình không còn gì để phải luyện tập nữa, và
từ đây mình đã trở thành "người không còn luyện
tập gì nữa cả" (a-sekha)!
* Vài lời ghi chú:
Trên phương diện "trình bày" thì
chúng ta có thể nhận thấy bài viết gồm có hai
phần. Phần thứ nhất cho biết việc tu tập Đạo
Pháp gồm có hai khía cạnh: hoặc hướng vào tâm
thức tức là phép Thiền định bằng cách ngồi yên,
hoặc hội nhập với thế giới này bằng cách giữ
giới, quan sát và phân tích từng hành động thật
nhỏ của mình. Trong phần thứ nhất này tác giả
cũng định nghĩa thêm về Thiền định và cho thấy
việc sử dụng một số thuật ngữ kém chính xác có
thể tạo ra một vài khó khăn nào đó. Trong phần
thứ hai thì bài viết nêu lên và giải thích về
phép tu tập bằng hành động và sự thăng tiến tuần
tự từng giai đoạn một của cách tu tập này.
Trên phương diện
"kỹ thuật" thì tác giả không dựa vào kinh nghiệm
cá nhân của mình mà chỉ trình bày thật khéo léo
những gì nêu lên trong kinh sách, bằng những
thuật ngữ trong kinh sách. Cách trình bày thật
cô đọng, chính xác và hết sức uyên bác, khác hẳn
với một số bài viết và băng đĩa chỉ dựa vào một
vài khái niệm sơ đẳng hoặc căn bản trong Đạo
Pháp để khai triển "tràng giang đại hải" bằng
những kinh nghiệm và hiểu biết cá nhân, phản ảnh
ít nhiều cái Ngã của mỗi người, đấy là chưa nói
đến những vi phạm vào giới luật "chánh ngữ"
dù chỉ là vô tình.
Trên phương diện
"nội dung", thì bài viết khai triển khía cạnh tu
tập bằng hành động và cho thấy cách tu tập này
cũng hữu hiệu ngang hàng như phép ngồi Thiền,
tất nhiên là với điều kiện phải thăng tiến tuần
tự theo ba cấp bậc: tu giới, tu định và tu tuệ,
tương tự như một người nông dân chuẩn bị thửa
ruộng, gieo trồng, chăm bón và gặt hái. Tuy
nhiên bài viết cũng cảnh giác người tu tập không
phải vì thế mà có thể bảo rằng: "...tâm thức tôi
phải được tẩy uế khỏi mọi ô nhiễm vào ngày hôm
nay, ngày mai hay ngày hôm sau", cũng như người
nông dân không có quyền lực hay sức mạnh nào để
có thể bảo rằng: "Những gì tôi gieo trồng phải
mọc lên trong ngày hôm nay, phải đơm hạt vào
ngày mai, và phải chín tới vào ngày hôm
sau...". Đấy cũng là cách mà bài viết nhắc nhở
chúng ta một cách kín đáo là phải kiên trì, vì
phép Thiền định bằng hành động có thể đòi hỏi
một thời gian tập luyện "lâu dài" hơn là phép
Thiền định bằng tư thế ngồi yên.
Dầu sao thì cứu
cánh của Đạo Pháp lúc nào "cũng chỉ có một vị
mặn duy nhất" đấy là sự Giải Thoát bằng Trí Tuệ.
Dù luyện tập bằng cách ngồi yên hay bằng hành
động thì cũng đều phải đưa đến Trí Tuệ. Thật vậy
chúng ta không nhìn hiện thực đúng với bản chất
của nó mà chúng ta chỉ nhìn hiện thực xuyên qua
những xung năng và dục vọng trong tâm thức của
mình. Chúng ta có xu hướng phóng lên hiện thực
và áp đặt cho hiện thực những ý đồ và tham vọng
của mình, tức những gì phản ảnh tâm thần của
chính mình. Do đó chúng ta nghĩ rằng đang nhìn
thấy hiện thực, thế nhưng thật ra thì chúng ta
chỉ nhìn thấy những ảo giác của hiện thực, nói
cách khác là chúng ta nhìn thấy các tham vọng và
bám víu cũng như sự ghét bỏ của mình và cho
đấy là hiện thực. Tóm lại chúng ta nhìn hiện
thực dưới các góc cạnh khác nhau như thích thú,
ghét bỏ, v.v.., thế nhưng hiện thực "là như
thế", tự nó không hàm chứa các đặc tính ấy,
chúng ta cắt hiện thực ra làm nhiều mảnh và gán
cho mỗi mảnh một đặc tính phù hợp với các xung
năng và xu hướng trong tâm thức mình.
Trí tuệ giúp chúng ta vượt lên trên những sự méo mó đó để
nhìn thấy bản chất đích thật của mọi hiện tượng.
Thực hiện được Trí Tuệ để quán thấy những thứ ấy
một cách trực tiếp bằng trực giác là cứu cánh
của sự luyện tập, hoặc bằng phép Thiền định ngồi
yên hoặc bằng phép Thiền định hành động. Xin mạn
phép đưa ra một thí dụ đơn giản và cụ thể như
sau, một người tu tập bước vào con đường đưa đến
Trí Tuệ, người này có hai cách để xác định vị
trí cũng như các điểm chuẩn để định hướng cho
mình trên con đường đó: hoặc nhìn sang bên phải
để tìm các điểm chuẩn thiên nhiên chẳng hạn như
núi đồi, cây cỏ, thung lũng, sông ngòi..., hoặc
nhìn sang bên trái và dựa vào nhà cửa, chợ búa,
cầu cống, xe cộ, người qua lại, sự sinh hoạt...
để định hướng. Thế nhưng bằng cách này hay cách
khác thì người tu tập cũng phải tìm thấy hướng
mà mình phải bước theo và tiến lên từng bước một
để đến gần hơn với Trí Tuệ. Nếu sau một thời
gian tu tập, có thể lâu hay mau, vài năm hay
hàng chục năm, và khi nhìn sang bên mặt thì ta
vẫn chỉ thấy toàn hùm beo, rắn rết, hố sâu và
rừng rậm, hoặc nhìn sang bên trái thì cũng vẫn
chỉ thấy các cảnh cướp giật, lường gạt, đâm
chém, súng đạn, nhà cháy, cầu sập..., thì có
nghĩa là chúng ta vẫn còn quẩn quanh và lang
thang trong thế giới ta-bà. Tập luyện bằng cách
ngồi yên hay bằng hành động thì đều phải luôn
nhìn lại xem mình có tiến được bước nào hay
chưa, và xem mình đã có đủ sức để gầm lên như
một con sư tử hay không? Đấy là cách giúp cho
một người tu tập ý thức được là mình có đi sai
đường hay không.
Bures-Sur-Yvette, 08.12.11
Hoàng
Phong chuyển ngữ
|