SỰ THẤT BẠI CỦA
TĂNG GIÀ NHẬT BẢN
VÀ
NHỮNG BÀI HỌC
Khải Tuệ

Truyền
thống Phật giáo không có sứ giả đứng ra tuyên bố
đúng hay sai thay đức Thế Tôn về cách con người
áp dụng giáo pháp của ngài. Đặc điểm đó của Phật
giáo tạo ra những giá trị riêng biệt mang sắc
thái tôn giáo của riêng từng nhóm dân tộc.
Thế giới biết đến
một Nhật Bản với những ấn tượng về một đất nước
và con người mà ở đó, văn hóa và đạo Phật không
thể tách rời nhau. Tuy nhiên những sự thật về
hiện tượng “tân tăng” (theo tiếng Việt) thì luôn
luôn là điều kín tiếng. Một cách tất nhiên, nhu
cầu của người viết và người đọc thường hướng đến
những điều mà khi bàn đến là để tìm ra cái có
thể học hỏi, những thứ không nên học hỏi thì
cũng không nên đọc và cũng không nên viết ra.
Giá trị ấy dường như có chút thay đổi trong thời
đại mà nhu cầu về cái biết của con người không
chỉ là để học hỏi, nói một cách chính xác hơn,
nhu cầu tri thức con người muốn biết đầy đủ cả
hai mặt chính diện và phản diện, có lẽ một mặt
để người ta học hỏi và mặt kia là để rút kinh
nghiệm. Người viết bài này cũng đã bắt đầu như
thế để tìm hiểu đề tài này. Xin chia sẻ nơi đây
như là một chút dữ liệu (trong trình độ không
chuyên) về thế giới quanh ta, hoàn toàn không
bàn đến chuẩn mực nào để phán xét đúng-sai, hay-dở
về văn hóa xứ người. Và hơn nữa theo người viết,
văn hóa nước ngoài, là thứ để biết, để hiểu chứ
không phải là thứ để học hỏi, ứng dụng và cần
thiết để phân định đúng sai.

1. Những nguyên nhân then chốt
a. Từ bỏ giới
Thanh văn, chỉ thọ giới Bồ-tát:
Có thể nói nguyên
nhân sâu xa và then chốt nhất của sự biến mất
truyền thống Tăng bảo trong Phật giáo Nhật Bản
hiện tại là bản thể giới luật của Tăng không
được coi trọng. Phật giáo được truyền vào Nhật
Bản năm 552, thời Kimmei 13, từ ngã Paekche (Hàn
Quốc ngày nay), tặng phẩm của quốc vương King
syong-myong bấy giờ gửi đến Nhật Bản là một
tượng Phật Thích Ca Mâu Ni. Phật giáo tín ngưỡng
ban đầu ấy sau nhiều sóng gió và cuối cùng bén
rễ được vào thời Soga no Umako (588), một số
kinh điển, các nghệ nhân, một vị Tăng, một vị
Ni, một nhà khổ hạnh… từ Peakche được gửi đến
Nhật. Đến thời điểm này Phật giáo Nhật Bản đã có
đủ giáo thể, giáo học, giáo đoàn. Tuy nhiên, mãi
đến năm 753, với sự thỉnh cầu từ phía Nhật, hòa
thượng luật sư Ganjin (鑑真)
và phái
đoàn của ngài từ nhà Đường-Trung Quốc đến Nhật
lập đàn truyền thọ đại giới, Tăng già từ đó thọ
đại giới Tỳ-kheo, giữ gìn giới luật Tăng già và
chính thức trở thành Tăng Bảo theo truyền thống
Phật giáo. Kinh đô nước Nhật bấy giờ là
Nara.
Giới luật được
thiết lập không bao lâu thì Phật giáo nước này
lại bước sang một bước ngoặt mới, sự có mặt của
Saicho (最澄),
tổ sư Thiên Thai tông Nhật Bản. Saicho tu học và
thọ đại giới ở kinh đô Nara năm 785, sau hơn nửa
năm du học ở Trung Quốc, tiếp nhận truyền thống
Thiên Thai tông và trở về Nhật năm 805, mang về
theo những pháp học chủ trương của tông phái này
gồm Viên, Giới, Thiền, Mật. Tuy nhiên theo
Saicho, về Giới, Nhật Bản không phù hợp với giới
Thanh Văn, thay vì truyền thống ban đầu của
Thiên Thai tông Trung Quốc là thọ trì cả hai
giới Thanh Văn và Bồ-tát giới, ông chủ trương
giới Thanh văn không phù hợp, chỉ cần thọ giới
Bồ-tát và giữ gìn nghiêm mật là đủ tiêu chuẩn
của một vị Tăng. Chủ trương ấy đã bị phản đối
kịch liệt từ các vị Tăng thuộc lục tông Nara lúc
bấy giờ. Tuy thế, vị trí và sự ảnh hưởng của
Saicho trong giai đoạn này rất đáng kể. Một điểm
đặc sắc của Phật giáo Nhật Bản là ảnh hưởng
chuyển biến theo các vương triều. Sau khi Saicho
từ Trung Quốc trở về, ông thành lập am tu hành ở
Hieizan (比叡山)
vị trí núi phía Đông Bắc thủ đô Kyoto. Nhằm lúc
kinh đô chính trị từ Nara mới chuyển về, chính
quyền Heian (794-1185) bấy giờ cho là ngôi chùa
phía Đông Bắc này trấn giữ và đem lại điềm lành
cho chính phủ, thế lực chính trị đã làm vị trí
và ảnh hưởng của Saicho trở nên đặc biệt đối với
các học Tăng đương thời. Và tất nhiên, tư tưởng
từ bỏ giới Thanh Văn chỉ thọ giới Bồ-tát với tác
phẩm “Hiển Giới Luận” được áp dụng ở Hieizan. Các
tông phái Phật giáo Nhật Bản thành lập từ thời
Heian trở đi, trừ Chân Ngôn Mật tông ở Koyasan (高野山),
đều có chịu ảnh hưởng từ tư tưởng Saicho ở đây,
nói đúng hơn hầu như các vị khai tổ về sau thuộc
Thiền và Tịnh đều xuất thân từ Hieizan, tức
không thọ đại giới Tỳ-kheo.
Có ý kiến cho
rằng tư tưởng của Saicho là nguyên nhân then
chốt nhất dẫn đến thế tục hóa Tăng già Nhật Bản,
bởi từ việc không giữ gìn giới luật đến việc lập
gia đình chỉ còn là khoảng cách của ý chí và
thời gian. Tuy nhiên một câu hỏi có vẻ then chốt
hơn là, ngoài yếu tố chính trị, tại sao tư tưởng
Saicho được chấp nhận? có khả năng giới Phạm
võng đã được truyền đến quá lâu trước giới
truyền thống, và một điều nữa, hòa thượng luật
sư Ganjin là người nước ngoài.

b. Sự xuất hiện của Tịnh Độ Chân tông
Một nguyên nhân
vô cùng cơ bản thứ hai của vấn đề này là sự có
mặt của Sinran (親鸞1173-1262)
và tư tưởng của ông, Sinran là đệ tử của Honen (法然1133-1212)
khai tổ Tịnh độ tông Nhật Bản. Hai thầy trò
Honen và Sinran đều xuất thân từ Hieizan, nhưng
cổ xúy thuần túy chỉ một pháp môn Niệm Phật,
trong khi giáo học Thiên Thai tông gồm Viên,
Giới, Thiền, Mật. Honen bị chỉ trích nặng nề và
đỉnh điểm là năm 1207 chính quyền thuyên chuyển
(đày) thầy trò ông tách nhau và rời khỏi thủ đô
Kyoto.
Sinran rời Kyoto
và cũng xa thầy Honen, đến Echigo ông vẫn giữ
pháp môn Chuyên Tu Niệm Phật, Dị hành đạo (con
đường dễ tu) với chủ trương chỉ niệm Phật thôi
là đủ thì tất nhiên ông có thể lập gia đình. Năm
1211, lệnh thuyên chuyển thầy trò Honen được dở
bỏ, Honen trở về Kyoto còn Sinran từ Echigo dời
về Kanto. Sinran đến Kanto khi ông đã lập gia
đình, nhưng vẫn chuyên tu niệm Phật và truyền
giảng pháp môn này một cách tích cực, ảnh hưởng
của ông rất đáng kể ở khu vực này. Với tư cách
một người đang có gia đình và làm công việc như
một vị Tăng, Sinran bị chỉ trích nặng nề từ
nhiều phía, cả từ các tông phái khác và cả từ
Tịnh độ tông, những huynh đệ đồng môn của ông.
Từ việc này, một cách ngẫu nhiên, Sinran trở
thành một nhân vật độc lập khỏi Tịnh độ tông của
thầy mình. Với việc chuyên tu niệm Phật và hoằng
truyền pháp môn này không mệt mỏi, ông đã có số
quần chúng nhất định. Hậu duệ của Sinran, tất
nhiên là với tư cách người cư sĩ, với tư tưởng
chuyên Niệm Phật và để khu biệt với Tịnh độ tông,
tông phái này tự nhận là Tịnh Độ Chân Tông.
Tông phái này của
Sinran tồn tại từ thế kỷ 13 đến cuối thế kỷ 19,
trong khoảng thời gian dài đó, các tông phái
khác của Phật giáo Nhật Bản vẫn lập tông, tồn
tại và phát triển giáo học không ngừng, đặc biệt
là sự phát triển và ảnh hưởng sâu rộng của tư
tưởng Thiền tông. Khi đề cập đến việc thế tục
hóa Tăng già Nhật Bản nhiều người đã nghĩ ngay
đến tông phái của Sinran, người viết cho rằng
ông đã tạo ra một bước ngoặt trong Phật giáo
Nhật Bản nhưng không phải là chính nhân làm thay
đổi diện mạo Tăng già. Bởi vì, tông phái này tồn
tại từ thế kỷ 13, các tông phái khác vẫn giữ
được sự thanh tịnh của Tăng già và chùa viện cho
đến cuối thế kỷ
19. Hơn nữa, tông phái này vẫn khẳng định rõ
ràng mình là cư sĩ có gia đình, tu theo pháp môn
“dị hành đạo”, không phải hình thức “người xuất
gia”.

c. Chính sách mới của chính phủ và thái độ
của Tăng già trước thời đại mới
Có thể nói, cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là thời gian tạo ra
nhiều sự biến đổi nhất của xã hội Nhật Bản trong
đó có Phật giáo. Sau lệnh “Thần Phật Phân Ly”
(1867) của Meiji Isin
(明治維新), chính phủ này dọn đường cho một tôn giáo mang tính chính trị mới là
Thần Đạo, lấy nguồn gốc từ tín ngưỡng thờ thần
trong nhân gian. Lệnh Thần Phật phân ly không
chỉ đơn thuần tách tín ngưỡng nhân gian ra khỏi
Phật giáo, mà dưới tác động của chính trị
nghiêng về Thần đạo, đã dấy lên phong trào “Phế
Phật Hủy Thích”, Thần Đạo thay vì chuyển mình từ
tín ngưỡng sang tư cách tôn giáo thì đã trật vào
hình thức chính trị. Hình thức tôn giáo chính
trị này được các nhà nghiên cứu đánh giá là
chính nhân đưa Nhật Bản bước vào tham gia chiến
tranh thế giới.
Người ta đã cố
gắng đi tìm một thứ gọi là quốc thể và cho là nó
ở trong Thần Đạo, nhưng tất nhiên không thể đáp
ứng được điều này, Phật giáo tất nhiên không thể
là quốc thể của người Nhật, nhưng tách Phật giáo
ra để đi tìm quốc thể là điều khiên cưỡng, bởi
nền văn hóa và văn minh Nhật Bản được ghi nhận
là bắt đầu từ thế kỷ thứ 6, nghĩa là kể từ khi
Phật giáo được truyền đến. Thần đạo quốc gia tồn
tại từ thời Meiji trải Taisho đến Showa thứ 20
(1945), sau khi Nhật thất bại thảm hại với hai
quả bom nguyên tử, người ta nhận ra tôn giáo và
chính trị cần phải tách bạch, Thần đạo quốc gia
bị tuyên bố xóa bỏ, Thần đạo quay về ý nghĩa tín
ngưỡng nhân gian vốn có, chấm dứt chế độ tôn
giáo chính trị trong xã hội Nhật Bản.
Trong gần một thế
kỷ, chính sách Thần đạo quốc gia đã gây ra nhiều
biến động trong các ngôi tự viện, chùa chiền trở
nên ít người lui tới, Tăng sĩ không còn được coi
trọng như trước đây. Dưới làn sóng xao động của
chính trị xã hội, người ta quan tâm nhiều hơn
đến những thành quả kinh tế-vật chất, các vị
Tăng đã hướng theo xu thế chính trị xã hội đương
thời, không giữ được con thuyền qua con sóng dữ.
Bên cạnh đó, Tịnh Độ Chân Tông với hình thức cư
sĩ đã hoạt động tích cực vào các lãnh vực. Tu sĩ
của các tông phái khác bắt đầu nghĩ đến thân
phận của mình trước những trào lưu mới, thêm vào
đó, họ không có giới luật để ràng buộc, không có
kết quả thích hợp với họ trong sự khổ luyện
nghiêm khắc, và đặc biệt là sự bàng quan của tín
đồ tại gia.
Các tông phái
thuộc Thiền tông vốn được coi là chuẩn mực trở
nên cứng nhắc trong việc tiếp Tăng độ chúng và
truyền bá Phật pháp trong thời rối ren, không
linh hoạt trong thời đổi mới. Khi những tinh hoa
của Phật giáo Nhật Bản bước ra cùng thế giới với
những đóng góp đáng kể của các vị Tăng mang đến
cho thế giới biết về một nền văn hóa ‘Zen
Buddhism’ đặc sắc của Nhật Bản, cũng là khi Tăng
sĩ trong nước bắt đầu bước đến con đường thế tục
hóa Tăng già và tự viện của mình.
Con
đường thế
tục hóa Tăng già tất nhiên khi nào ban đầu cũng
với những lý do cao thượng, có thể đó là ý hướng
“Phật giáo hóa xã hội”, nhưng ngõ rẽ này đã biến
thành “xã hội hóa Phật giáo”. Và đã có sự
khởi đầu thì ắt sẽ khó lòng quay lại. Người hảo
tâm xuất gia ngày một ít đi, những ngôi chùa cần
có người trông coi trở nên mặc nhiên chấp nhận
hình thức Tăng sĩ mới. Khi tự viện không còn
chúng Tăng, thay vì chùa là nơi tu học thì chỉ
còn một chức năng cúng bái, trú trì chùa sẽ làm
công việc này như kế sinh nhai, trong quy luật
có cầu thì có cung của xã hội, tất nhiên kể từ
đây vị trí xã hội của những thành phần này không
thể còn có giá trị như xưa, người ta luôn kính
Phật nhưng “kính Phật” không còn đi chung với từ
“trọng tăng”.
Giai đoạn thế tục
hóa Tăng già và tự viện cũng là lúc giáo lý Phật
giáo được truyền đi bằng một phương hướng mới,
khi giá trị đức hạnh của Tăng sĩ không còn, nhu
cầu học Phật của người Nhật trong thời đại đã
tạo nên một hướng đi mới cho Phật giáo đối với
dân tộc có truyền thống Phật giáo lâu đời này.
Thay cho
tự viện là trường học, thay cho các buổi thuyết
pháp là các ấn phẩm sách báo Phật giáo. Nhu cầu
học Phật của người dân Nhật rất lớn và Phật học
ở đất nước này là một ngành có ưu thế trong hệ
khoa học xã hội và nhân văn.

2. Bài học nào có thể rút ra
Bài học của Phật
giáo Nhật Bản cho thấy sự biến dạng của Phật
giáo được xác tín rõ ràng nhất là thời kỳ xã hội
biến động về chính trị và làn sóng đổi mới trong
giai đoạn cuối thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ 20,
trải qua cuộc thử lửa ấy Phật giáo đã không mất
trong lòng dân tộc Nhật nhưng giá trị Tăng sỹ đã
hoàn toàn thay đổi, giá trị biểu trưng sống động
nhất của Phật giáo biến dạng thì tất nhiên giá
trị Phật giáo trong xã hội mang một ý nghĩa khác.
Nói đến một bài
học cho Phật giáo Việt Nam trong trường hợp này
hẳn là điều khiên cưỡng, vì Việt Nam, với những
yếu tố đặc sắc và cơ bản của mình thì chắc chắn
không thể xảy ra một điều tương tự. Tuy nhiên,
chúng ta có thể xác tín được một số yếu tố chủ
chốt từ sự thất bại này.
a. Giới luật là
thể tính của Tăng:
Điều đầu tiên ta cần khẳng định, từ thế kỷ thứ
9, Tăng Nhật bản đã không thọ trì giới tỳ-kheo.
Từ việc không hay biết, không thọ trì giới
tỳ-kheo đến việc lập gia đình là khoảng cách
hoàn toàn có thể giao nhau khi Phật giáo bước
vào giai đoạn thử lửa.
b. Trân trọng,
quan tâm và đáp ứng đủ nhu cầu cống hiến của
giới cư sĩ tại gia:
Đây một nguồn nhân lực lớn, cả tầng lớp cư sĩ trí thức và cả những thành
viên không thể giữ trọn vẹn đời sống phạm hạnh
của thiền môn. Sự chỉ trích, bài xích và mặc tẫn
là cách nhanh nhất làm đoàn thể tứ chúng tan rã,
tạo ra những giá trị trái chiều.
c. Mềm dẻo trong
cách tiếp tăng độ chúng:
thái độ cứng nhắc và khắt khe của quy luật tự
viện trong xã hội quá sung túc và thoáng đãng đa
nhu cầu bên ngoài tạo thành hai thế giới quá
cách xa nhau, bên cạch đó, nhu cầu học vấn của
Tăng sĩ trẻ là một nhu cầu rất cần thiết phải
đáp ứng. Sự thua thiệt về mặt học vấn của tăng
sĩ trẻ trong thời đại của tri thức sẽ đẩy các vị
Tăng vào công việc ma chay hơn là công việc
hướng dẫn tinh thần.
d. Phật tử tại
gia cần biết:
bảo vệ quyền lợi cho con cháu và tôn giáo của
dân tộc mình, có trách nhiệm bảo vệ chánh pháp,
lên tiếng đúng lúc để bảo vệ sự thanh tịnh của
Tăng già đúng chánh kiến của người con Phật,
không phải là sự thụ động và bàng quan.
Truyền thống Tăng
già của đạo Phật Việt Nam theo cách hiểu nhân
gian và cơ bản nhất thường có một khái niệm
chung: đã là nhà sư thì ăn chay và giữ gìn đời
sống thanh tịnh không gia đình. Để có được khái
niệm cơ bản ấy trong xã hội là kết quả của một
sự truyền thừa xuyên suốt hai ngàn năm. Quan
điểm cơ bản về tăng già như thế là hoàn toàn
chánh kiến, Phật giáo ấy là của dân tộc Việt, là
niềm tự hào của Phật tử Việt Nam. Khi ta biết
thêm về nhiều nền văn hóa khác có cùng nguồn ảnh
hưởng từ Phật giáo, ta thấy có nơi nhà sư không
ăn chay, và cũng có nơi lập cả gia đình, tất
nhiên trong trường hợp này không thể hiểu như từ
“nhà sư” trong tiếng Việt. Thế giới hiện tại mở
ra cho ta thấy nhiều, nghe nhiều và kho tri thức
ngày mỗi lớn thêm, tuy nhiên sự quảng kiến quảng
văn ấy giúp ích hay làm tổn hại đến ta, là những
bài học để ta nghĩ nhiều hơn về cái ta đang có
hay là đồng hóa, ứng dụng để vong bản trước dân
tộc. Đó là một quá trình thử lửa.
Bài học từ Phật
giáo Nhật Bản cho thấy, Tăng già không chỉ giữ
gìn giới luật để giữ sự trong sáng của Phật giáo,
giữ hình ảnh và giá trị Tăng bảo, mà ngoài thế
ra, dưới quan điểm xã hội học, giữ gìn bản thể
giới luật thanh tịnh, trước tiên và quan trọng
nhất, là cách giữ gìn cân bằng những trạng thái
xã hội. Điều này người viết xin được điểm qua
như dưới đây.

3. Sự thất bại của Tăng già và những mất mát
trong xã hội
Một điều cần phải
được khẳng định, sự thất bại của Tăng già không
hẳn là sự thất bại của Phật giáo trong trường
hợp Nhật Bản, một minh chứng rất rõ rằng đạo
Phật là của tứ chúng, không phải chỉ là của Tăng.
Phật giáo không biến mất nơi một đất nước đã
được huân đúc nền văn hóa truyền thống từ đạo
Phật vốn hiện hữu từ rất lâu đời, mà với sức
mạnh ấy,
người Nhật đã chuyển Phật giáo qua một hình thức
mới rất thời đại văn minh, hiện đại, khoa học
hơn… Tuy nhiên, dẫu hiện tại có được giá trị mới
nào đi chăng nữa, sự xói mòn giá trị truyền
thống với cách đánh mất vai trò Tăng bảo là một
mất mát, khó lòng hồi phục được. Mất mát ấy là
một thiệt thòi lớn cho thế hệ hôm nay và mai
sau.
Chưa nói đến vấn
đề tâm linh hay giềng mối đạo đức nghe có vẻ cao
xa, thực trạng nhức nhối nhất mà cường quốc văn
minh và giàu mạnh ấy đang đối mặt rõ ràng có thể
thấy được là sự cô độc của người già, nạn tự kỷ
của thanh thiếu niên, tình trạng stress, căng
thẳng của các tầng lớp lao động…, những vấn đề
hoàn toàn không đáng có nơi một xã hội có truyền
thống Phật giáo lâu đời.
Sự giàu
mạnh về vật chất làm người ta tin rằng sẽ bảo
đảm cho tuổi già, nhưng vật chất không có đủ sức
mạnh để có thể làm chỗ dựa cho những tâm hồn mệt
mỏi. Niềm tin tuyệt đối về thế giới cực lạc
cho dù sẵn có nhưng điều đó là ở thế giới bên
kia, thế giới của tình cảm con người hiện tại
cần những điều cụ thể. Các cụ già những khi vắng
con vắng cháu có thể đến chùa, nghe một thời
kinh, tham dự một thời thuyết pháp, một ngày tu
bát quan trai, ở đó có những người bạn già, có
những vị Tăng mà cuộc đời họ không thuộc về
quyền sở hữu của ai, có thể nghe các cụ một câu
chuyện, hay một lời hỏi thăm… hay đơn giản hơn
các cụ chỉ đến ngồi dưới bóng mát yên tịnh của
mái chùa, một mái chùa đúng nghĩa không phải mất
tiền mua vé vào cổng và không thuộc quyền sở hữu
của gia đình nào.
Trong khi các
nước có truyền thống Phật giáo giải đáp tốt được
điều này thì xã hội Nhật bản hiện đại đã đánh
mất vốn liếng quý báu của mình trong quá trình
đổi mới. Mất đi giá trị truyền thống của Tăng
tức mất đi một yếu tố Phật giáo đóng vai trò làm
cân bằng cho xã hội hiện đại. Phật giáo, với đặc
điểm đa phương diện vẫn hiện hữu ở đây, phát
triển mạnh mẽ về phương diện tín ngưỡng, tích
cực về phương diện tri thức nhưng thiếu những
nhân tố làm cho nó trở nên sống động đúng với
bản chất của một tôn giáo thực hành. Tầng lớp
giáo sư, nhà nghiên cứu, các học giả uyên thâm
là những nhân vật cần thiết, nhưng cầu nối để
Phật giáo là chất liệu sống cho con người thì
phải là sự thực hành, điều đáng lẽ ra được làm
tốt bởi các vị Tăng.
Phật tử Nhật bản
không còn đủ Tam Bảo để tạo nên thế đứng truyền
thống của Phật giáo, nhưng thành công khác của
Phật giáo nơi dân tộc hùng mạnh này từ bao đời
nay vẫn đủ sức tạo nên một xã hội mà nhân cách
con người đạt đến mức chuẩn mực. Khó có một xã
hội văn minh nào mà người nhặt được của rơi luôn
mang giao cho cảnh sát, người ta luôn nghĩ đến
người khác trước khi nghĩ đến mình, thế giới hẳn
đã chưa quên và văn minh phương Tây hẳn đã giật
mình khi chứng kiến cách cư xử của những con
người đang đứng trước sự cùng cực ở nơi đây
trong vụ thiên tai thảm khốc vừa qua.
Có
những
hướng đi hoàn toàn mới lạ và biểu hiện rõ tính
độc lập tự chủ đáng nể đối với Phật tử ở xứ sở
này. Giá trị tăng già thay đổi điều đó không có
nghĩa đạo Phật biến mất, truyền thống con Phật
được khẳng định một cách thiết thực nhất là
phong trào truyền đạo của các tôn giáo phương
Tây, kết quả mà họ gặt hái được so với sự nhiệt
tình quả là khiêm tốn.
Cơn gió hiện đại
đã làm Phật giáo Nhật Bản biến thành một hình
thức tôn giáo mới duy nhất chỉ có ở Nhật Bản.
Phật giáo Việt Nam, cũng tương tự đối với một số
nước có cùng nguồn gốc Phật giáo đang đối mặt
với làn sóng xô bồ của hiện đại hóa, làm sao để
thích ứng và phát triển, làm sao để giữ gìn đủ
tố chất, làm sao để là chiếc cầu nối con cháu
với tổ tiên, để văn hóa dân tộc sáng hơn và đẹp
hơn trong thời đại... là những câu hỏi lớn luôn
cần phải đặt lên hàng đầu.
Phật giáo
Việt Nam ngày sau như thế nào thì vẫn là điều
đang nằm phía trước, khi ta đang đứng trước
guồng máy xã hội hiện đại, quay rất nhanh và
những điều khôn lường luôn luôn còn ở phía
trước, ta đang bước vào thời kì mà mấy mươi năm
trước Nhật Bản đã đi qua. Với những bài học
về sự thất bại như ta đang thấy sẽ là những kinh
nghiệm giá trị để con thuyền Phật giáo vượt qua
cơn sóng gió. Có được điều đó nhất định không
chỉ vài người mà tất cả mọi người, không chỉ
Tăng già mà tất cả những người con Phật mang
linh hồn dân tộc Việt.
Khải Tuệ
(theo Thư
Viện Hoa Sen)
--------------------------
Sử liệu tham khảo:
“The Role
of the Precepts in Saicho’s thought”. In Paul
Groner, Saicho: the Establishment of the
Japanese Tendai school. Honolulu: University of
Haiwai Press, 2000.
Richard
Bowring: “The Religious Traditions of Japan,
500-1600”, Cambridge University Press, 2005.
Sueki
Fumihiko: “Nihon shukyoshi”, Iwanami Shoten,
Tokyo, 2006. (Việt dịch: “Lịch sử tôn giáo Nhật
Bản”, công ty sách Alpha, Nhà xuất bản Thế Giới,
2011.)


|