NHỮNG BÀI VIẾT CỦA TUỆ THIỀN – LÊ BÁ BÔN
ĐÀM ĐẠO VỀ MINH TRIẾT
Hỏi: Thế nào là tâm trí minh triết?
Đáp: Tâm trí minh triết là tâm trí mang phẩm
chất chân-thiện-mỹ.
Hỏi: Thế nào là tâm trí mang phẩm chất
chân-thiện-mỹ?
Đáp: Tâm trí mang phẩm chất chân-thiện-mỹ là tâm
trí giải thoát khỏi tình trạng óc não bị quy
định, bị khuôn đúc (tình trạng vô minh quy ngã).
Hỏi: Tâm trí giải thoát khỏi tình trạng óc não
bị quy định, bị khuôn đúc, nói cụ thể hơn, có
nghĩa là gì?
Đáp: Tức là giải thoát khỏi tình trạng ngã chấp
(tình trạng chấp thủ cái “tôi”, tình trạng quy
ngã).
Hỏi: Tại sao điều này có tầm quan trọng như vậy?
Đáp: Vì cái “tôi” càng đen tối, tình trạng quy
ngã càng lớn thì các phẩm chất quan trọng như
tâm thái hòa bình an lạc, tâm trí tự do tự chủ,
tình yêu thương lân mẫn, thiện chí công bằng
bình đẳng càng yếu kém. Yếu kém các phẩm chất
quan trọng này thì không thể có tâm trí minh
triết; vì minh triết có nghĩa là có nhãn quan
minh triết, có hành động minh triết với cuộc
sống toàn diện, với thế giới, với con người.
Hỏi: Làm sao để giải thoát khỏi tình trạng ngã
chấp?
Đáp: Viên mãn giải thoát thì rất khó. Để giảm
thiểu tình trạng ngã chấp, để có được những giây
phút giải thoát khỏi tình trạng ngã chấp, chủ
yếu là phải biết tự tri; tức là phải thấu hiểu,
phải thấy biết, phải cảm nghiệm tâm trí mình. Tự
tri mang nội hàm “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”. Muốn
đi sâu vào tự tri, cần thực hành nghiêm túc và
tìm hiểu thêm về thiền định tự tri (pháp môn
quán tâm).
Hỏi: Tự tri có phải cũng chính là trí tuệ tâm
linh?
Đáp: Đúng vậy. Tự tri là trí tuệ minh triết, là
trí tuệ nhân văn, là trí lương tri, là trí vô sư,
là trí tuệ tâm linh, là trí bát-nhã, là trí tuệ
vũ trụ (trí tuệ nhất thể). Vì thế, “tự tri-tỉnh
thức-vô ngã” là đạo lý của vũ trụ, là mẫu số
chung của ý nghĩa cuộc sống.
“Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lý của vũ trụ,
là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền;
mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ,
cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất
cả. - “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là minh sư vĩ
đại nhất của chính mình. (Đường Về Minh Triết;
Thư viện 4phuong.net).
Hỏi: Như thế, không biết tự tri thì không thể có
tâm trí mang phẩm chất minh triết (phẩm chất
chân-thiện-mỹ) đích thực?
Đáp: Đúng vậy. Không thể nào có minh triết khi
mà mình hoàn toàn vô minh đối với tâm ý của
mình. Vô minh thì không thể minh triết, dù giàu
sang về trí-công-cụ.
19/10/2013
Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn)
*********
SUY NGHĨ VỀ MINH
TRIẾT GIÁO DỤC
* Chưa có triết lý về giá trị nhân sinh thì văn
hoá-giáo dục còn khập khiễng, chính trị còn khập
khiễng.
* Khi triết lý giáo dục chưa minh triết thì tất
yếu dẫn đến suy yếu đạo đức nghề nghiệp ở người
lao động, suy yếu lương tri ở người cán bộ.
* Nền văn học nào, nền giáo dục nào không giúp
được con người nhận ra các bệnh tâm hồn, không
giúp con người biết cách tự chữa trị có hiệu
quả, thì đó là nền văn học, nền giáo dục còn
nhiều yếu kém.
* Nhà giáo yếu kém nhân cách thì chỉ là công cụ
tồi, có hại cho xã hội rất lớn (vì nhiều người
ngây thơ tin tưởng vào họ). Tu sĩ yếu kém nhân
cách cũng thế.
* Tâm hồn đen tối tạo ra xã hội đầy tệ nạn. Muốn
xây dựng xã hội tốt đẹp, phải có nền giáo dục có
khả năng giáo dục tất cả mọi người (không trừ
một ai) nhận thức sâu sắc các bệnh tâm hồn, phải
làm cuộc cách mạng nội tâm tận đáy cái “tôi”.
* Chưa nghiên cứu nghiêm túc về bản ngã (cái
“tôi") thì chưa thể có đường lối giáo dục đúng
đắn.
* Cái “tôi" càng lớn, càng bền chắc, càng xảo
quyệt, càng tự tôn, càng bè phái thì sự liêm
khiết trí thức càng suy yếu, tư tưởng và hành vi
“người bóc lột người” càng đa dạng .
* Khi cái “tôi” xâm lấn, bóc lột người khác, nó
luôn ẩn núp sau những lời hoa mỹ.
* Càng tôn vinh quá độ các gíá trị bản năng và
công cụ (nhất là công cụ trí óc) thì thế giới
càng đảo điên, khốn đốn.
* Vắng mặt năng lực tự tri tự chủ, vắng mặt
trí-lương-tri thì trí-công-cụ sẽ trở thành tôi
tớ cho trí-chó-sói.
* Mọi tài năng đều có giá trị về mặt công cụ,
đều có thể góp phần làm cho cuộc đời tốt đẹp
hơn. Nhưng cái năng lực quý giá nhất làm cho con
người giữ vững giá trị làm người, đó là sự tự
tri tự chủ. Thiếu cái năng lực này, các tài năng
khác có thể biến con người thành ác quỷ, dã thú,
kẻ đê tiện.
* Sự xấu ác là biểu hiện của cái “tôi” (bản ngã)
đen tối.
* Cái “tôi” càng lớn thì tình thương càng nhỏ.
Càng chấp thủ cái “tôi”, bệnh tinh thần càng
nặng; càng ảnh hưởng có hại cho tha nhân, môi
trường bằng hành vi, bằng thái độ, bằng năng
lượng tâm ý.
* Nếu giàu tri thức, giàu tài năng nhưng yếu kém
lương tâm, lương tri thì chỉ là công cụ; chưa có
nhân cách; còn nghèo trí tuệ; chưa trưởng thành
toàn diện.
* Bệnh thành tích sinh ra thói dối trá, thói dối
trá sinh ra sự thối nát.
* Làm chính trị chân chính thì đừng sợ bị chê
bai, bị phê phán; không có lời chê bai, phê phán
thì khó nhận thấy khuyết điểm, sai lầm.
* Nhà tâm lý học không thể hiểu biết sâu sắc cơ
cấu tâm lý nếu không thiền định tự tri. Nhà giáo
dục học, nhà chính trị học sẽ không có tầm nhìn
minh triết về giáo dục, về chính trị nếu không
hiểu biết sâu sắc cơ cấu tâm lý con người. Nhà
truyền bá tôn giáo sẽ hạ thấp giá trị tôn giáo
nếu thiếu quan tâm vấn đề này.
* Không ai là không có tâm xấu ác, điều quan
trọng là phải nỗ lực cải tạo. Thực hành “tự
tri-tỉnh thức-vô ngã” là trách nhiệm của mọi
người.
* Càng hướng đến lý tưởng vô ngã thì cái “tôi”
càng giàu thiện ích mỹ.
* Một vấn đề lớn của thời đại chúng ta, là làm
thế nào để xây dựng vững chắc cảm hứng sống có
đạo đức nhân văn ở con người.
* Đừng coi thường việc chữa trị các bệnh tinh
thần, vì nếu thế, văn minh vật chất và sự hưng
thịnh kinh tế chỉ như sức lực dồi dào của một gã
khùng hung hãn, sẽ rất nguy hiểm cho nhân loại.
* Khi tâm hồn không có lý tưởng thánh thiện và
minh triết thì con người rất dễ bị cái xấu lôi
cuốn, rất dễ bị tha hóa biến chất.
* Không biết tu tâm thì không thể phát triển
nhân cách. Sự tu tâm chân chính là việc làm quan
trọng, có ý nghĩa lớn đối với xã hội, vũ trụ.
* Làm cho con người biết yêu quý nét đẹp tâm hồn
mình, đó là nhiệm vụ cao cả của văn hoá, của
giáo dục, của tôn giáo.
* Người biết yêu nét đẹp của tâm hồn là người
trưởng thành tâm trí, là người có tinh thần dũng
cảm, biết sống với hạnh phúc chân chính.
* Tâm ý xấu ác không chỉ có hại cho thế giới, mà
còn rất hại cho môi trường năng lượng của mình.
* Có đức mà không có tài, không phải là vô dụng,
vì vẫn có tác dụng giáo dục lớn lao đối với xã
hội (qua lối sống), vì vẫn mang năng lượng tinh
thần (thiện ích) ảnh hưởng tốt đến môi trường
sống của cộng đồng (có cả giá trị giáo dục). Có
tài mà không có đức, không chỉ có hại cho xã hội
về hành vi xấu, mà còn mang năng lượng tâm thức
độc hại cho môi trường (và cho bản thân mình).
(Vấn đề này Phật giáo gọi là tạo nghiệp tốt xấu;
nghiệp cũng mang năng lượng; toàn vũ trụ là
những dòng chảy năng lượng).
* Muốn chữa cơn bệnh nặng, không thể chỉ uống
vài lần thuốc. Muốn rèn luyện cơ thể, không thể
chỉ cần một vài buổi tập. Cũng vậy, muốn cải tạo
những tính xấu thì phải có chương trình học tập,
rèn luyện lâu bền. Đây là điều mà ngành giáo dục
cần quan tâm đúng mức khi bàn đến chất lượng
giáo dục, hiệu quả giáo dục, đào tạo cán
bộ...(Giúp cho mọi người có cảm hứng tự hoàn
thiện nhân cách, đó là vấn đề cực kì quan trọng
của giáo dục, của văn hóa).
* Tư tưởng xuất thế góp phần làm trong sạch sự
nhập thế.
* Tôn giáo có ý nghĩa lớn về đạo đức, về cảm
hứng, nhu cầu cải tạo tâm tính, nếu tôn giáo
giàu từ bi bác ái.
* Không xiển dương sự thanh tẩy tâm thức thì tôn
giáo, tín ngưỡng chứa đầy mê tín có hại.
* Sự tĩnh tâm tự tri có công năng giữ gìn lương
tri, sự tự chủ, sức khoẻ tinh thần, giá trị làm
người .
* Từ năng lượng quán tâm (tự tri) xuất sinh tình
thương, niềm vui, năng lực sáng tạo có chất
lượng cao, xuất sinh nhãn quan minh triết, tác
dụng giáo dục.
* Thiền định tự tri thì không thuộc riêng tôn
giáo nào hay nền văn hoá giáo dục nào; đó là tài
sản cực kì quý giá của nhân loại muôn đời, của
vũ trụ.
* Giáo dục “toạ thiền-quán hơi thở-tự tri” là
biện pháp tối ưu để nâng cao hiệu quả giáo dục,
thăng hoa tâm trí, cải thiện thế giới.
* “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lý của vũ
trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là
Thiền; mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn
vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung
của tất cả.
* “Tự tri” là quán chiếu tâm thức, là biết rõ
tâm trí. “Tỉnh thức” là tâm không vọng tưởng.
“Vô ngã” là tâm thái hoà bình, an lạc, yêu
thương, thiện ích, tự do tự tại, diệu dụng, bất
sinh bất diệt, tịch tri, tịch chiếu.
* Viên mãn “tự tri-tỉnh thức-vô ngã” rất khó,
nhưng chỉ có hướng đến đó mới xây dựng được mẫu
số chung cho nhân cách, cho ý nghĩa cuộc sống.
Chỉ có hướng đến đó mới tạo nên tiếng nói chung
cho hoà bình, công bằng, nhân ái - thật sự biết
tôn trọng nhau giữa người với người.
* Theo nhiều nhà khoa học tự nhiên, năng lượng
tâm thức là dạng năng lượng cơ bản, có ảnh hưởng
tốt hoặc xấu cho toàn vũ trụ (tuỳ tính chất tâm
thức) và cho bản thân.
* Theo cách nói của nhiều nhà vật lý thì vũ trụ
là một mạng lưới chằng chịt vật chất và tâm linh
tương quan với nhau. Hiểu như vậy, sẽ thấy toàn
vũ trụ là một cơ thể bất khả phân.
* Thiền là sống tỉnh thức, thực tế và minh
triết.
* Thiền định tự tri càng cao thì càng minh mẫn
hơn, chủ động hơn với cuộc sống, với công việc;
năng lượng phiền não được chuyển hoá thành năng
lượng an lạc, thiện ích .
* “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là minh sư vĩ đại
nhất của chính mình.
* Nghề nghiệp, công việc chỉ có tính chất quan
trọng (nhiều hay ít), chứ không có tính chất
cao quý. Sự cao quý thuộc về nhân cách, lương
tâm.
* Ở giữa vườn hoa, xác chuột chết vẫn thối; ở
giữa đầm bùn lầy, đoá sen vẫn thanh khiết.
* Một nguyên thủ quốc gia, một nhà thơ, một bộ
trưởng, một sĩ quan, một giáo sư... nếu mang
nặng thói tham ô, hối lộ, bè phái thì giá trị
làm người không bằng một người ăn xin lương
thiện.
* Không có sự liêm khiết trí thức thì không có
năng lực tư duy minh triết về những vấn đề trọng
đại của cuộc sống, dù có học vị tiến sĩ triết
học hay bất cứ gì.
* Phải biết “ghét” bệnh phong, nhưng đừng ghét
người mang bệnh phong; cũng vậy, phải biết ghét
thói xấu nhưng đừng ghét người đang có thói xấu.
Sự xấu ác là bệnh tinh thần.
* Khi kẻ ác tấn công ta, ta sử dụng trí tuệ và
lòng dũng cảm để đối phó với chúng; làm như thế
thì có lợi hơn là sử dụng lòng căm thù.
* Giá trị làm người thể hiện ở hiệu quả thiện
ích , ít tác hại (nhất là ở mặt “tiềm ẩn” là
năng lượng tâm thần) đối với xã hội , đối với
vận hành của vũ trụ.
* Truyền bá minh triết Thiền Định Tự Tri là góp
phần cải tạo xã hội.
* Thượng Đế (hay Chân-Thiện-Mỹ) không thuộc về
phe này hay nhóm kia, không thuộc về hình tướng
nào; mà thuộc về những tâm hồn trong sạch, bình
đẳng, bác ái, từ bi. Đó là Tánh Viên Giác.
* Truyền bá minh triết thiền “tự tri-tỉnh
thức-vô ngã” là góp phần xây dựng nền văn hoá
hoà bình, nền văn hóa tiên tiến.
(Trích trong Đường Về Minh Triết; NXB Văn
Nghệ, 2007)
Tuệ Thiền (Lê
Bá Bôn)
**************************
BÀI VĂN CẢM THƯƠNG
NHỮNG LINH HỒN NGẠ
QUỶ
(Kính chúc siêu thăng cho linh hồn
người thân và tất cả chúng sinh các cõi khổ)
Ngạ quỷ là những linh hồn quỷ đói
Khi sống trên đời, nặng tham sân si
Quáng mắt theo đuôi bao điều tà kiến
Khi chết, linh hồn đoạ lạc nẻo mê!
Họ vất vưởng chốn ngục tù mồ mả
Của cúng dâng cho, cũng hoá than hồng
Bởi nghiệp nặng, bên thức ăn vẫn đói
Vàng mã chất đầy, cũng chỉ số không!
Xin xót thương những linh hồn ngạ quỷ
Đừng sát sinh, đừng giỗ tiệc đua đòi
Mình hưởng thụ, nhưng họ thêm đau khổ
Họ chỉ đứng nhìn thèm khát mà thôi!
Xin xót thương những linh hồn ngạ quỷ
Cầu nguyện, tụng kinh cho họ siêu thăng…
Hồi hướng công đức cho bao cõi khổ
Chẳng có gì hơn tâm ý thiện lành.
Tuệ Thiền Lê Bá Bôn
******
NGỌN ĐUỐC MINH TRIẾT
TRÊN ĐƯỜNG TÌM ĐẠO
(CHÂN LÝ)
Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn)
(Trích trong Đường Về Minh Triết; NXB Văn Nghệ,
2007)
* “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lý của vũ
trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là
Thiền; mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn
vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung
của tất cả.
* “Tự tri” là quán chiếu tâm thức, là biết rõ
tâm trí. “Tỉnh thức” là tâm không vọng tưởng.
“Vô ngã” là tâm thái hoà bình, an lạc, yêu
thương, thiện ích, tự do tự tại, diệu dụng, bất
sinh bất diệt, tịch tri, tịch chiếu.
* Tự tri là, bằng trí tuệ nội quán, nhận biết
trọn vẹn mọi cảm giác, tư tưởng, ý muốn, nhận
thức phân biệt v. v…đang xảy ra trong tâm trí.
Đây là sự nhận biết (kiến chiếu) một cách tự
nhiên, không phê phán, không lấy-bỏ (thủ-xả),
không dụng công. Có năng lực kiến chiếu này thì
tâm trí sẽ tĩnh lặng (tỉnh thức) và thấy rõ bản
chất của bản ngã (cái “tôi”). Bản ngã sẽ được
chuyển hoá thành trạng thái tâm vô ngã - tức là
tâm thái hoà bình, từ bi đích thực, mang năng
lượng tích cực có lợi cho toàn “mạng lưới vật
chất và tâm linh” của vũ trụ.
*“Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là minh sư vĩ đại
nhất của chính mình.
* Viên mãn “tự tri-tỉnh thức-vô ngã” rất khó,
nhưng chỉ có hướng đến đó mới xây dựng được mẫu
số chung cho nhân cách, cho ý nghĩa cuộc sống.
Chỉ có hướng đến đó mới tạo nên tiếng nói chung
cho hoà bình, công bằng, nhân ái - thật sự biết
tôn trọng nhau giữa người với người.
* Không xiển dương sự thanh tẩy tâm thức thì tôn
giáo, tín ngưỡng chứa đầy mê tín có hại.
* Thiền chân chính, tôn giáo chân chính không
thể không lấy “tự tri-tỉnh thứ-vô ngã” làm lý
tưởng, làm mục đích. Đó là cốt tuỷ của Thiền học
chân truyền, của hành trạng Đại thừa.
* Nên thấu hiểu rằng, lòng tự hào tôn giáo cũng
là cái “tôi” hiếu chiến vô minh.
* Sự giác ngộ đích thực thì đi đôi với lòng từ
bi, bao dung.
* Muốn giác ngộ chân lý tuyệt đối, phải biết
“đạt lý, quên lời”, không chấp thủ ngôn từ, hình
tướng - dù hình tướng thánh nhân.
* Thượng Đế (hay Chân-Thiện-Mỹ) không thuộc về
phe này hay nhóm kia, không thuộc về hình tướng
nào; mà thuộc về những tâm hồn trong sạch, bình
đẳng, bác ái, từ bi. Đó là Tánh Viên Giác.
* Thiền định tự tri thì không thuộc riêng tôn
giáo nào hay nền văn hoá giáo dục nào; đó là tài
sản cực kì quý giá của nhân loại muôn đời, của
vũ trụ.
* Có thể có tinh thần tôn giáo mà không theo tôn
giáo nào, tín ngưỡng nào.
* Một người ngoại đạo có thể sống khế hợp giác
ngộ nếu có khát vọng. Ngộ đạo không khó, cái khó
là có khát vọng.
* Không tôn trọng phương tiện thăng hoa tâm linh
của người khác thì chưa có tâm thái hòa bình,
tỉnh thức.
* Người có tâm Đại thừa thì vui mừng vì nhiều
người biết hướng thượng, chứ không cố chấp “hơn
thua" về khái niệm, về từ ngữ.
* Nếu đã thật sự phát khởi tâm nguyện lớn (tâm
Đại thừa) thì dù chưa triệt ngộ, vẫn có thể tuỳ
duyên sử dụng nghịch hạnh.
* Khi sống muốn bao la cùng trời đất thì khi
chết sẽ không bị trói buộc vào chốn phiền não.
* Tôn giáo có ý nghĩa lớn về đạo đức, về cảm
hứng, nhu cầu cải tạo tâm tính, nếu tôn giáo
giàu từ bi bác ái .
* Về tôn giáo cũng như về các lĩnh vực khác, rất
nhiều người đạt đến đỉnh cao bằng con đường tự
học, tự đào tạo, bằng cách sống thông thường.
Khát vọng lớn thì thành công lớn.
* Ở giữa vườn hoa, xác chuột chết vẫn thối; ở
giữa đầm bùn lầy, đoá sen vẫn thanh khiết.
* Không biết phục thiện thì không thể học được
những bài học vĩ đại trong trường đời; dù có
bằng cấp cao cũng chi là kẻ ấu trĩ về trí tuệ.
* Không tự tri, tức quán tâm, thì không thể thấy
huyễn tướng cái “tôi”, tức bản ngã.
* Sự xấu ác là biểu hiện của cái “tôi” (bản ngã)
đen tối.
* Cái “tôi” càng lớn thì tình thương càng nhỏ.
Càng chấp thủ cái “tôi, bệnh tinh thần càng
nặng; càng ảnh hưởng có hại cho tha nhân, môi
trường bằng hành vi, bằng thái độ, bằng năng
lượng tâm ý.
* Theo cách nói của nhiều nhà vật lý thì vũ trụ
là một mạng lưới chằng chịt vật chất và tâm linh
tương quan với nhau. Hiểu như vậy, sẽ thấy toàn
vũ trụ là một cơ thể bất khả phân.
* Con người cần có sự định tâm tỉnh trí để thấy
biết trọn vẹn tâm hồn mình. Không tự tri thì
không tự chủ, không có sự liêm khiết và tự do
tinh thần, không có Thiền.
* Tham cứu Thiền là tham cứu sự sống và ý nghĩa
cuộc sống.
* Thiền là tự tri, là siêu vượt tín ngưỡng, hình
tướng, khái niệm…, là sống tỉnh thức toàn diện
với trí vô sư, với trí tuệ siêu vượt quy định
nhị nguyên (tức là sống với trí bát-nhã).
* Không phải “danh ngôn” nào, “lễ nghĩa” nào,
“truyền thống” nào cũng giá trị, cũng đáng theo.
* Tinh thần càng tự do thì trí tuệ-lương tri
càng sáng.
* Có những thứ “vinh quang” dính đầy sự bẩn
thỉu. Ai mới thấy hào quang danh lợi đã trọng
vọng, đó là người không minh mẫn, không biết
chính tà.
* Chưa nghiên cứu nghiêm túc về bản ngã (cái
“tôi") thì chưa thể có đường lối giáo dục đúng
đắn.
* Không biết phục thiện thì không thể học được
những bài học vĩ đại trong trường đời; dù có
bằng cấp cao cũng chi là kẻ ấu trĩ về trí tuệ.
* Tâm hồn đen tối tạo ra xã hội đầy tệ nạn. Muốn
xây dựng xã hội tốt đẹp, phải có nền giáo dục có
khả năng giáo dục tất cả mọi người (không trừ
một ai) nhận thức sâu sắc các bệnh tâm hồn, phải
làm cuộc cách mạng nội tâm tận đáy cái “tôi”.
* Nhà giáo yếu kém nhân cách thì chỉ là công cụ
tồi, có hại cho xã hội rất lớn (vì nhiều người
ngây thơ tin tưởng vào họ). Tu sĩ yếu kém nhân
cách cũng thế.
* Một vấn đề lớn của thời đại chúng ta, là làm
thế nào để xây dựng vững chắc cảm hứng sống có
đạo đức nhân văn ở con người.
* Thiền là sống tỉnh thức, thực tế và minh
triết.
* Khi ta suy nghĩ, ta chỉ tiếp xúc với một vài
khía cạnh cuộc sống. Nhưng nếu muốn giáp mặt
thực tại toàn diện của cuộc sống thì phải im
lặng tâm trí.
* “Vô niệm” để chấm dứt trí nhớ tâm lý - thứ
trí nhớ lấy cái “tôi”, cái chấp ngã làm trọng
tâm.
* Tâm vô ngôn là sự tỉnh thức toàn diện của sự
sống.
* Tâm trí không tĩnh lặng thì không thể giáp mặt
thực-tại-đúng-như-thực, không thể giáp mặt chân
lý cuộc sống.
* Niềm tin nếu đi đôi với sự chấp ngã nặng nề
thì nuôi dưỡng lòng kiêu ngạo sân si.
* Không biết tu tâm thì không thể phát triển
nhân cách. Sự tu tâm chân chính là việc làm quan
trọng, có ý nghĩa lớn đối với xã hội, vũ trụ.
* Truyền bá minh triết Thiền Định Tự Tri là góp
phần cải tạo xã hội.
* Khi dục vọng vô mình và sự chấp ngã ngự trị
thì không có tự do tinh thần.
* Vô minh là trạng thái tâm trí trụ vào kiến
chấp nhị nguyên (nhị tướng).
* Tự tri là hồi quang phản chiếu, là nội quán.
* Giá trị làm người thể hiện ở hiệu quả thiện
ích , ít tác hại (nhất là ở mặt “tiềm ẩn” là
năng lượng tâm thần) đối với xã hội , đối với
vận hành của vũ trụ.
* Tâm giải thoát phiền não mang ý nghĩa hiếu
nghĩa lớn nhất, mang ý nghĩa nghĩa vụ và trách
nhiệm cao quý nhất, vì đó là hành động thuận đạo
lý, thuận hợp đại luật vận hành của vũ trụ.
* Thấu triệt lý duyên sinh-vô ngã thì tâm dễ
tĩnh lặng, não dễ chuyển hóa, dễ ngộ nhập chân
lý tuyệt đối.
* Vắng mặt năng lực tự tri tự chủ, vắng mặt
trí-lương-tri thì trí-công-cụ sẽ trở thành tôi
tớ cho trí-chó-sói.
* Cái “tôi" càng lớn, càng bền chắc, càng xảo
quyệt, càng tự tôn, càng bè phái thì sự liêm
khiết trí thức càng suy yếu, tư tưởng và hành vi
“người bóc lột người” càng đa dạng .
* Giáo dục “toạ thiền-quán hơi thở-tự tri” là
biện pháp tối ưu để nâng cao hiệu quả giáo dục,
thăng hoa tâm trí, cải thiện thế giới.
* Thiền là sống tỉnh thức, thực tế và minh
triết.
* Thấy-biết khác với hiểu. Nếu thấy-biết của tâm
chưa khế hợp với Bát Nhã Tâm Kinh thì chưa có
Trí Bát Nhã.
* Một trong những phương cách giúp duy trì cảm
hứng sống thiền là tọa thiền mỗi ngày. Không nên
bỏ trắng ngày nào cả (vì lý do gì đó cũng nên
duy trì vài phút).
* Khoác lác, tự đại, tự ti, khiêm tốn đều không
có lợi cho Đạo.
* Muốn đi sâu vào kinh sách về Thiền, phải có
năng lực đọc-hiểu và đọc-thấy. Thiền định tự tri
làm xuất sinh năng lực đọc-thấy. Đó là cái thấy
nội tại.
* Khi tâm hồn không có lý tưởng thánh thiện và
minh triết thì con người rất dễ bị cái xấu lôi
cuốn, rất dễ bị tha hóa biến chất.
* Chưa thật thấy chúng sinh là ân nhân của mình
thì chưa có phẩm chất Bồ tát, chưa tỉnh thức.
* Sự tĩnh tâm tự tri có công năng giữ gìn lương
tri, sự tự chủ, sức khoẻ tinh thần, giá trị làm
người .
* Người biết yêu nét đẹp của tâm hồn là người
trưởng thành tâm trí, là người có tinh thần dũng
cảm, biết sống với hạnh phúc chân chính.
* Càng hướng đến lý tưởng vô ngã thì cái “tôi”
càng giàu thiện ích mỹ.
* “Vô ngã” là bản ngã (cái “tôi”) chuyển thành
trạng thái tâm trí hòa bình, tỉnh sáng, “vô ngôn
giữa muôn lời”.
* Khi cái “tôi” xâm lấn, bóc lột người khác, nó
luôn ẩn núp sau những lời hoa mỹ.
* “Vô ngã” là Sự Sống bất sinh bất diệt. “Vô
ngã” là chân ngã, là giải thoát.
* Tâm hồn không tự do thì không có năng lực tư
duy độc lập, không cảm thụ được trọn vẹn vẻ đẹp
cuộc sống, nghèo nàn tinh thần sáng tạo, kém
nhân cách.
* Tâm ý xấu ác không chỉ có hại cho thế giới, mà
còn rất hại cho môi trường năng lượng của mình.
* Tư tưởng xuất thế góp phần làm trong sạch sự
nhập thế.
* Tâm Đại thừa là tâm khiêm hạ, hiểu rằng tội
lỗi của mình từ vô lượng kiếp đã ảnh hưởng xấu
đến tất cả chúng sinh.
* Tâm Đại thừa khởi phát từ sự nhận thức sâu
sắc rằng, tội lỗi của cá thể ảnh hưởng đến toàn
thể, qua thân khẩu ý.
* Thể xác thì tất nhiên có sở trụ, nhưng tinh
thần thì cần “hướng đến” vô sở trụ.
* Làm cho con người biết yêu quý nét đẹp tâm hồn
mình, đó là nhiệm vụ cao cả của văn hoá, của
giáo dục, của tôn giáo.
* Thiền định tự tri là sống tận nền tảng, tận
cội nguồn sự sống.
* Giá trị giác ngộ, giá trị Đại Thừa không nằm ở
hành vi, hình tướng bên ngoài, mà ở thực chất
của tâm. Nếu thật sự có giác ngộ, có tâm Đại
thừa thì dù sống ẩn dật vô danh vẫn có thiện ích
lớn cho chúng sinh, cho sự nghiệp giác ngộ
chung.
* Có duyên lành với nền văn hoá giác ngộ là có
diễm phúc cực kì lớn lao.
* Nếu chưa quán tâm (tự tri) để thấy rõ tướng
trạng như huyễn của bản ngã thì chưa biết “đọc
kinh bằng tâm”, chưa biết đọc công án Thiền.
* Thỉnh thoảng có được một vài phút sống với tâm
vô ngôn cũng có công đức và phước đức rất lớn.
* Giới hạnh là vấn đề khoa học, vấn đề nhân quả.
Chí hướng giác ngộ biết tôn trọng nhân quả,
nhưng muốn siêu vượt nhân quả, luân hồi.
* Gọi là “Thiền” hay từ nào khác cũng được, điều
quan trọng là cái nội hàm “tự tri-tỉnh thức-vô
ngã”.
* Thiền học không nên chỉ dạy hạn chế ở một vài
ngành đại học, mà nên phổ cập ở mọi cấp học để
có nền tảng vững chắc trong giáo dục-đào tạo
nhân cách.
* Cái “tôi” làm cho tâm hồn nặng trĩu vì uy lực,
còng xuống vì nô lệ, đen tối vì tự ti, tự phụ,
tự ái…
* Thiền định tự tri càng cao thì càng minh mẫn
hơn, chủ động hơn với cuộc sống, với công việc;
năng lượng phiền não được chuyển hoá thành năng
lượng an lạc, thiện ích .
* Niệm (nhớ-nghĩ) luôn xuất hiện trong tâm.
Chúng là ngôn từ (tiếng nói bên trong) và có
hình tướng (sóng tâm thức). Trong thiền định (tự
tri), ai thấy rõ niệm sinh diệt liên tục, thấy
rõ chỗ niệm xuất hiện và chấm dứt (tức là khoảng
trống giữa hai niệm) thì sẽ nhận ra (ngộ) tâm vô
niệm, “vô ngôn”. Đó là tâm thể “một niệm vô
ngôn" như vầng trăng toả sáng. (“Niệm” trong
“niệm vô ngôn" có huyền nghĩa khác hẳn với
“niệm” trong “vọng niệm”. Phải ngộ mới thấy, mới
biết). Vô ngôn đó khi đã “an định”, sẽ soi sáng
muôn lời (tức là soi sáng trí phân biệt tương
đối), sẽ là tri giác tự do tự tại, thoát tình
trạng vọng động vô minh. Đó là “tánh sáng” bất
sinh bất diệt.
* Phải biết “ghét” bệnh phong, nhưng đừng ghét
người mang bệnh phong; cũng vậy, phải biết ghét
thói xấu nhưng đừng ghét người đang có thói xấu.
Sự xấu ác là bệnh tinh thần.
* Nếu chưa quán tâm (tự tri) để thấy rõ tướng
trạng như huyễn của bản ngã thì chưa biết “đọc
kinh bằng tâm”, chưa biết đọc công án Thiền.
* Thỉnh thoảng có được một vài phút sống với tâm
vô ngôn cũng có công đức và phước đức rất lớn.
* Giới hạnh là vấn đề khoa học, vấn đề nhân quả.
Chí hướng giác ngộ biết tôn trọng nhân quả,
nhưng muốn siêu vượt nhân quả, luân hồi.
* Cái nhìn khách quan không thể đánh giá được
nhân cách minh triết; chỉ họ tự biết. Nhân cách
minh triết tối cao chính là nhân cách
tự-do-tinh-thần. Đó là giá trị cao nhất.
* Tâm bất bình thường thì não bất bình thường.
Tâm não bất bình thường tác động bất bình
thường đến sự vật và ảnh hưởng xấu đến nhận thức
của ta, đến cuộc sống của ta (kể cả hoàn cảnh).
* Được lên thiên đường bởi niềm vui: niềm vui
mang tính chất nhân từ. Bị xuống địa ngục cũng
bởi “niềm vui”: niềm vui mang tính chất gian ác.
* Không quan tâm đến sự sống sau khi thể xác
chết là quá thờ ơ với tương lai.
* Trong ta có “tấm gương” “nghe và thấy” được tư
tưởng, cảm giác, ý muốn... Tĩnh tâm một thời
gian thì tấm gương này sẽ lộ rõ. Nó càng sáng,
ta càng dễ thấy cái “tôi” và cái “tôi” dễ dàng
được chuyển hoá thành “vô ngã”.
* Mọi tài năng đều có giá trị về mặt công cụ,
đều có thể góp phần làm cho cuộc đời tốt đẹp
hơn. Nhưng cái năng lực quý giá nhất làm cho con
người giữ vững giá trị làm người, đó là sự tự
tri tự chủ. Thiếu cái năng lực này, các tài năng
khác có thể biến con người thành ác quỷ, dã thú,
kẻ đê tiện.
* Khi ngồi định tâm mà vẫn nhớ nghĩ đủ chuyện
(tức nói năng bên trong) thì giống như khi ngồi
một mình mà nói đủ điều. Đó là tình trạng bất
bình thường của tâm trí, của bộ não và hệ thần
kinh.
* “Tỉnh thức” là “có mặt” trong giây phút hiện
tại với những gì đang xảy ra.
* “Có mặt” tức là tâm trí không còn vọng tưởng
lang thang.
* Người biết yêu điều tốt ghét điều xấu là người
biết phục thiện; người biết phục thiện thì dễ
tiếp thu đạo lý giác ngộ; người biết tiếp thu
đạo lý giác ngộ thì dễ thực hành tự tri; người
biết thực hành tự tri thì dễ thực chứng chân lý
tuyệt đối, siêu vượt khái niệm-tướng trạng.
* Khi kẻ ác tấn công ta, ta sử dụng trí tuệ và
lòng dũng cảm để đối phó với chúng; làm như thế
thì có lợi hơn là sử dụng lòng căm thù.
* Vô ngã là tâm thái tịch tri, tịch chiếu,
thường tịch quang. Vô ngã là Chân ngã.
* Đừng coi thường việc chữa trị các bệnh tinh
thần, vì nếu thế, văn minh vật chất và sự hưng
thịnh kinh tế chỉ như sức lực dồi dào của một gã
khùng hung hãn, sẽ rất nguy hiểm cho nhân loại.
* Từ năng lượng quán tâm (tự tri) xuất sinh tình
thương, niềm vui, năng lực sáng tạo có chất
lượng cao, xuất sinh nhãn quan minh triết, tác
dụng giáo dục.
* Tâm thái vô ngã là tâm thái hòa bình, bao
dung, minh triết, thông minh.
* Khi đã biết sống với tâm vô ngôn thì tuỳ duyên
ứng xử, không bị quy định bởi bất cứ gì; đó là
sự tự do tự tại đích thực của tâm trí. Tâm Thiền
là Chân-Thiện-Mỹ. Minh triết tối thượng là biết
dừng tâm và tịch chiếu.
* Tâm hồn không thanh bình thì cuộc sống kém
chất lượng, hiệu quả công tác không cao, không
có kinh nghiệm về niềm an vui tự phát, không thể
ngộ nhập Tánh Viên Giác vốn có ở chúng sinh và
trùm khắp mười phương.
* Truyền bá minh triết thiền “tự tri-tỉnh
thức-vô ngã” là góp phần xây dựng nền văn hoá
hoà bình, nền văn hóa tiên tiến.
* Tu viện lớn, lễ lược nhiều không có ý nghĩa
bằng chăm lo chu đáo và khoa học cho sự tu tập
và đời sống vật chất của tu sĩ.
* Một tinh thần thật sự trẻ trung và đầy sinh
lực là một tinh thần trong sạch. Tinh thần đó ít
lệ thuộc vào thể trạng và hoàn cảnh.
* Có đức mà không có tài, không phải là vô dụng,
vì vẫn có tác dụng giáo dục lớn lao đối với xã
hội (qua lối sống), vì vẫn mang năng lượng tinh
thần (thiện ích) ảnh hưởng tốt đến môi trường
sống của cộng đồng (có cả giá trị giáo dục). Có
tài mà không có đức, không chỉ có hại cho xã hội
về hành vi xấu, mà còn mang năng lượng tâm thức
độc hại cho môi trường (và cho bản thân mình).
(Vấn đề này Phật giáo gọi là tạo nghiệp tốt xấu;
nghiệp cũng mang năng lượng; toàn vũ trụ là
những dòng chảy năng lượng).
* Chưa nghiên cứu nghiêm túc về bản ngã (cái
“tôi") thì chưa thể có đường lối giáo dục đúng
đắn.
* Theo nhiều nhà khoa học tự nhiên, năng lượng
tâm thức là dạng năng lượng cơ bản, có ảnh hưởng
tốt hoặc xấu cho toàn vũ trụ (tuỳ tính chất tâm
thức) và cho bản thân.
* Trái đất đang nóng dần lên; tâm hồn nhân loại
đang nóng bỏng. Nhà khoa học nỗ lực vá tầng ô-dôn;
thiền gia nỗ lực thiền định để góp phần chuyển
hoá tâm trí nhân loại bằng năng lượng tỉnh thức,
an lạc, thanh thoát, từ bi.
* Nhà tâm lý học không thể hiểu biết sâu sắc cơ
cấu tâm lý nếu không thiền định tự tri. Nhà giáo
dục học, nhà chính trị học sẽ không có tầm nhìn
minh triết về giáo dục, về chính trị nếu không
hiểu biết sâu sắc cơ cấu tâm lý con người. Nhà
truyền bá tôn giáo sẽ hạ thấp giá trị tôn giáo
nếu thiếu quan tâm vấn đề này.
* Không ai là không có tâm xấu ác, điều quan
trọng là phải nỗ lực cải tạo. Thực hành “tự tri-tỉnh
thức-vô ngã” là trách nhiệm của mọi người.
--------------------------------------------
CÁC
SƯU TẦM GÓP PHẦN HỖ TRỢ SỰ NGHIỆP GIÁC NGỘ
(Đã
đăng kèm trong một số bài thơ)
---
1)
MỘT SỐ TƯ TƯỞNG ĐẠI THỪA
(Trích
trong Thiền Luận, quyển hạ; D.T.Suzuki; Tuệ Sỹ
dịch)
*
Khát vọng giác ngộ của các nhà Đại thừa trước
hết là vì thế giới. Chính bởi họ mong cầu sự
giác ngộ và giải thoát của cả thế giới nên trước
hết họ nỗ lực tự giác ngộ, tự giải thoát, tự
mình cởi bỏ sự ràng buộc của nghiệp và những
chướng ngại do tri thức (sở tri chướng). (…) Vì
lí do đó, Đại thừa nhấn mạnh ý nghĩa tâm nguyện
đại bi. (…).
* Khi
khảo sát về quá trình hiện thực của giác ngộ,
Đại thừa thấy rõ rằng nó gồm có hai bước quyết
định. Khởi đầu cần phải tạo nên một khát vọng
giác ngộ vì kẻ khác, thì mục đích tối hậu mới có
thể thành tựu được. Khát vọng đó cũng quan
trọng và rất có ý nghĩa như sự thành tựu, vì
không thể có thành tựu nếu không có khát vọng
kia; quả thực, sự thành tựu luôn luôn được xác
định bởi khát vọng; tức là, thời gian, nỗ lực,
hiệu quả… của giác ngộ, hoàn toàn dựa trên phẩm
chất của ý nguyện ban sơ được phát khởi cho sự
thành tựu chủ đích tối hậu. Động lực xác
định diễn trình, cá tính và năng lực của hành
động. Mong cầu giải thoát được thúc bách
kịch liệt có nghĩa rằng, quả vậy, cái phần lớn
và khó khăn của sự nghiệp đã được làm xong.
Người ta cũng nói, khởi sự tức là hoàn tất.
* Coi
Bồ-tát như một kẻ trên thì mong cầu giác ngộ, mà
dưới thì do tấm lòng lân tuất, nhiệt tình
muốn cho khắp cả thế gian thụ hưởng pháp lạc,
cái lí tưởng đó được kiên trì trong tất cả những
người theo Đại thừa. (…).
*
Hoài bão ước vọng giác ngộ không phải là biến cố
bình thường trong đời sống của một người theo
Đại thừa, vì rằng đó là bước quyết định phải có
để hướng tới cái mục tiêu (…). Giác ngộ không
phải là một công việc riêng tư chẳng can dự gì
đến khối lớn cộng đồng; điểm tựa của nó được
đặt ngay trong lòng vũ trụ. (…).
*
Những điều kiện tất yếu cho việc làm trỗi dậy
ước vọng giác ngộ (tức Bồ-đề tâm) có thể
được tóm tắt như vầy: 1- hành vi đạo đức; 2-
thân cận chư Phật (các bậc giác ngộ viên mãn) và
các thiện tri thức; 3- tâm thanh tịnh, chân thật
và từ bi. Khi làm tròn ba điều kiện này, Bồ-đề
tâm (Bodhicitta) được coi là đã ngóc đầu dậy và
sẵn sàng để tăng tiến.
* Để
rõ thêm bản chất của giác ngộ theo nhận định của
các nhà Đại thừa, chúng ta lại dẫn thêm kinh
Thập Địa, theo đó, ước vọng giác ngộ (tức Bồ-đề
tâm) bao gồm các yếu tố như sau:
1.
Tâm đại bi là yếu tố dẫn đầu;
2.
Trí siêu việt là yếu tố chỉ đạo;
3.
Phương tiện là yếu tố hộ trì;
4.
Thâm tâm là chỗ nương tựa.
* (…)
Khi đã an trụ trong những sự kiện như thế rồi,
được coi là đã đạt tới địa vị đầu tiên (sơ
địa) của Bồ-tát. Đó là Hoan hỉ địa. Vì rằng,
kể từ bây giờ, tín tâm không còn bị lay chuyển
nữa.
*
Bồ-đề tâm khởi lên từ tâm đại bi; nếu không vậy,
chẳng thể có Phật pháp. Coi nặng đại bi tâm
là nét chính của Đại thừa. Chúng ta có thể
nói, toàn bộ tính chất của giáo thuyết đó quay
quanh cái trụ chốt này. Nền triết lí viên dung
được miêu tả rất gợi hình trong Ganda (Kinh Hoa
Nghiêm) thực sự chính là cái bùng vỡ của công
năng sinh động đó.
*
(Kinh Hoa Nghiêm nói) Bồ-đề tâm như đại dương vì
chứa tất cả các hạt ngọc công đức. Bồ-đề tâm như
núi Tu-di vì bình đẳng đứng cao trên tất cả mọi
vật. Bồ-đề tâm như núi Thiết-vi vì bảo trì
hết thảy thế gian. (…).
* Nói
vắn tắt, Bồ-đề tâm không chỉ là tình yêu thương,
nó còn bao gồm cả một trực kiến của triết lí.
Nó là một hóa thân cụ thể toàn nhất của Trí và
Bi. Bi và Trí khởi sự thực sự ở trong Tâm
đó. (…).
-----------
2)
TRÍCH ĐOẠN VỀ LÍ TƯỞNG ĐẠI THỪA
(Trích trong Thiền Luận, quyển hạ; D.T.Suzuki;
dịch giả: Tuệ Sỹ)
* Rồi
ra, đâu là một vài biến chuyển tư tưởng chủ yếu
đã diễn ra trong Phật giáo cho phép nó tạo dựng
một vũ trụ mệnh danh là Dharmadhatu (Pháp giới)?
Đâu là những cảm xúc và những ý tưởng đã đi vào
tâm thức những cư dân của Dharmadhatu? (...).
(...). Tại sao một
số Phật tử không thỏa mãn với con đường mà đạo
Phật đã tiến bước xa sau khi Phật tạ thế? Sự
tiến bước này đã liên tục hướng đến cực
đoan khổ hạnh một
đàng, và đàng khác hướng đến kiến thiết những
xảo thuật triết lí. Thế tức là, đạo
Phật, thay vì là một tôn giáo phổ cập, xã hội,
thực tiễn, đã chuyển hướng thành một thứ thần bí
giữ chân các tín đồ nó trên cao độ ngây ngất của
những trừu tượng xa vời, khiến cho họ
không chịu bước xuống giữa những ràng buộc của
mặt đất. Một tôn giáo như thế hẳn là rất ư hoàn
hảo dành cho thành phần “ưu tú” (...), nhưng
thiếu sinh khí và thiếu lợi ích quần chúng khi
nó nằm ngoài tầm tiếp xúc với những sự việc cụ
thể của đời sống. Các nhà Đại thừa nổi
dậy chống lại thái độ xa cách và thờ ơ (...).
Như thế, vì
họ muốn phục hồi và di dưỡng lí tưởng Bồ tát,
vốn đã đánh dấu công hạnh của Phật trước khi
ngài chứng đắc giác ngộ tối thượng; vậy
nên họ tận lực khai triển kì cùng tất cả những
gì phải có trong lí tưởng này. Do đó, tôi đã
chọn chương mở đầu của Ganda (Hoa Nghiêm) (...),
cho thấy những gì có trong tâm thức của các môn
đệ Đại thừa khi họ phát triển những tư tưởng và
khát vọng của mình. (…).
* Khi
đạo Bồ tát đến Trung Hoa và được dân tộc này
thâu thái, nó trở thành cái mà ngày nay chúng ta
gọi là Phật giáo Thiền tông. Nó cởi bỏ trang
phục Ấn Độ; những trực giác siêu hình cao vọi
của nó được thay thế bằng những khẩu quyết thực
tiễn cho đời sống thường nhật chúng ta, và những
huyễn ảnh muôn màu phong phú của nó nhường bước
cho hoạt động sống thực với công việc đốn củi,
trồng thông v.v… Dù vậy, chẳng có gì là bình
phàm, thô lậu. Trái lại, bất cứ tinh thần
của thiền vận động ở đâu, mọi việc giao tiếp với
nó đều khoác lên cái huyền ẩn. (…).
----------
3)
TRÍCH PHỎNG VẤN VỊ THIỀN SƯ PG NAM TÔNG – MANG Ý
ĐẠI THỪA
(Trích trong tác phẩm Biết
Và Thấy của
Thiền sư Pa-Auk Sayadaw; dịch giả Pháp Thông;
NXB Tôn Giáo; 2006. Ngài là một vị thiền sư danh
tiếng, theo truyền thống Theravàda - Phật giáo Nam tông.
Theo lời giới thiệu thì lời dạy của ngài giống
như những gì được mô tả trong Thanh Tịnh Đạo,
nhưng nhiều chi tiết hơn; Thanh Tịnh Đạo
(Visuddhi Magga)do ngài Buddhaghosa biên soạn,
là một giải trình về tam học).
*
Hỏi: Đức Phật là một bậc Đại A-la-hán. Thế nào
là sự khác nhau giữa Ngài và các vị đệ tử như
tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, cũng là
các bậc A-la-hán?
Đáp: A-la-hán thánh đạo của đức Phật luôn
luôn kết hợp với Toàn
giác trí hay Nhất thiết trí, còn
A-la-hán thánh đạo của các vị đệ tử bao gồm sự
giác ngộ của ba hạng đệ tử (thanh văn). 1- Sự
giác ngộ của bậc Thượng thủ Thanh văn. 2- Sự
giác ngộ của bậc Đại Thanh văn. 3- Sự giác ngộ
của bậc Thanh văn thường.
A-la-hán thánh đạo của các vị đệ tử Thanh văn
đôi khi kết hợp với tứ tuệ phân tích; đôi khi
kết hợp với sáu thắng trí hay lục thông. Đôi khi
kết hợp với tam minh; hoặc có khi chỉ là
A-la-hán thánh đạo thuần túy: Câu phần giải
thoát hoặc Tuệ giải thoát. Nhưng không bao giờ
kết hợp với Toàn giác trí. Như vậy, cho dù là
Thượng thủ Thanh văn, A-la-hán thánh đạo của tôn
giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cũng không kết
hợp với Toàn giác trí. Ngược lại, A-la-hán thánh
đạo của đức Phật không những kết hợp với Toàn
giác trí, mà còn với tất cả các trí khác, cũng
như các
đức đặc biệt của một vị Phật.
Một điều khác nữa là, do
các ba-la-mật đã thành thục của các ngài, mà chư
Phật tự mình đắc Đạo, Quả và Toàn Giác Trí,
không cần một vị thầy. Trong khi một vị
Thanh văn đệ tử chỉ có thể đắc các Đạo, Quả tuệ
do nghe pháp liên hệ đến Tứ Thánh Đế nơi một vị
Phật, chứ không thể tự mình thực hành mà không
có thầy chỉ dẫn được. Đây là những điểm khác
nhau.
* (Trong
một câu trả lời khác) Có
bốn loại người đạt đến Niết Bàn. Loại thứ nhất
là Độc
giác Phật, ở đây chúng ta không đề cập
đến. Ba loại còn lại là: 1- một vị Bồ
tát, 2- một vị Thượng thủ Thanh văn, 3-
một vị Đại Thanh văn, và một vị Thanh văn
thường.
Đức Bồ tát của chúng ta trong thời kì của đức
Phật Nhiên Đăng đã đắc tám thiền chứng và năm
thần thông hiệp thế (ngũ thông). Trong các kiếp
quá khứ, ngài cũng đã hành Chỉ và Quán đến “Hành
xả tuệ”. Nếu ngài thực sự muốn đắc Niết bàn,
ngài có thể đắc một cách nhanh chóng, do nghe
một bài kệ ngắn mà đức Phật Nhiên Đăng thuyết về
Tứ Thánh Đế. Nhưng
ngài không chỉ mong mỏi Niết Bàn, mà muốn phát
nguyện thành Phật trong tương lai, nên
sau đó ngài nhận được lời thọ kí xác định của
đức Phật Nhiên Đăng. (…).
* (Trong
một câu trả lời khác) Sở
dĩ có điều này là vì con
đường thực hành của Bồ tát và con đường thực
hành của vị Thanh văn thường không giống nhau.
Quý vị có thể xác chứng điều này trong các bản
Kinh Pali – Buddhavamsa (Phật Sử) và
Cariyapicaka (Hạnh Tạng). Hai con đường này khác
nhau như thế nào? Mặc dù một vị Bồ tát đã được
đức Phật thọ kí, vào lúc ấy, các ba-la-mật của
họ vẫn chưa thành thục để đạt đến Toàn giác trí. Vị
ấy còn phải tu tập các ba-la-mật thêm nữa. (…).
Lúc đó, ngài vẫn chưa thể hủy diệt hoàn toàn
nghiệp lực bất thiện. Vì vậy, khi các
nghiệp bất thiện chín mùi, ngài không thể thoát
khỏi quả báo của chúng. Đây là một quy luật tự
nhiên.
Nhưng một vị Thanh văn bậc thường đã đắc Tuệ
phân biệt nhân duyên, hoặc Sinh diệt tuệ, hoặc
Xả hành tuệ, có các ba-la-mật đủ để đắc đạo -
quả tuệ. Vì lí do này, họ đắc đạo - quả, tức là
thấy Niết Bàn ngay trong kiếp này hoặc trong
kiếp tương lai nào đó của họ. Đây cũng là một
quy luật tự nhiên.
* (Nói
về cúng dường) Trong
Kinh Phân Biệt Cúng Dường mà ở đầu bài giảng này
có đề cập đến, đức Phật giải thích mười bốn loại
cúng dường theo cá nhân hay đối nhân thí như
sau.
(…)
Do
cúng dường với tâm trong sạch đến một phàm
nhân giới đức, sự cúng dường ấy có thể
được đáp trả lại (phước báo) một trăm nghìn lần.
Do
cúng dường đến
một người ngoài giáo pháp (của Phật) đã li tham đối
với các dục nhờ chứng thiền, sự cúng
dường ấy có thể được đáp trả một ngàn vạn lần.
Do
cúng dường đến một vị đã
nhập vào đạo lộ đưa
đến sự chứng đắc Nhập
lưu thánh quả, kết quả của sự cúng
dường ấy không thể tính kể, không thể đo lường
được. (…).
*
Hỏi: Đức Phật dạy cho các tì khưu “Thần Chú Rắn”
(Mantra). Đọc thần chú ấy có giống như Thiền tâm
từ không? Có phải niệm chú là một truyền thống
của Bà-la-môn du nhập vào đạo Phật không?
Đáp: Thần chú là gì? Thế nào là “Thần Chú Rắn”?
Chúng tôi không biết các thần chú có phải được
truyền vào từ Ấn Giáo hay không, nhưng trong
kinh điển Thượng tọa bộ (Theravàda) có một bài
Kinh Bảo Hộ Khanda Paritta. Đức Phật dạy Kinh
Bảo Hộ này để các tì khưu đọc tụng hàng ngày. Có
một điều luật quy định rằng, nếu một tì khưu hay
một tì khưu ni ở rừng nào mà quên đọc Kinh Bảo
Hộ này ít nhất mỗi ngày một lần, vị ấy xem như
đã phạm một tội.
Có
một lần, vào thời đức Phật, một vị tì khưu nọ
đang trú trong rừng thì bị một con rắn độc cắn
chết. Do sự kiện này mà đức Phật dạy bài Kinh
Khanda Paritta. Mục
đích của Kinh Bảo Hộ này cũng giống như Thiền
tâm từ vậy. Trong Kinh đưa ra những
cách khác nhau để mở rộng lòng từ đến các loại
rắn và rồng khác nhau. Ngoài
ra cũng có một lời xác nhận về sự thực liên quan
đến Tam bảo và những ân đức của Phật cũng như
các vị A-la-hán. Chúng tôi sẽ tụng bài
Kinh Bảo Hộ này tối hôm nay. Nó rất có oai lực.
Quý vị có thể gọi đó là “Thần Chú Rắn” cũng
được. Cái tên không quan trọng lắm. Quý vị có
thể gọi nó bằng bất cứ tên gì mình thích. Có một
số vị sư ở Miến Điện dùng Kinh Bảo Hộ này để
tụng cho những người bị rắn độc cắn rất có hiệu
quả. Khi
họ tụng Kinh Bảo Hộ này nhiều lần và khi nạn
nhân uống nước có tụng bài Kinh ấy, nọc độc dần
dần tan biến. Thường thường thì họ
khỏi, nhưng không phải trường hợp nào cũng được
như vậy. Đức Phật dạy Kinh Bảo Hộ này để các vị
tì khưu ngăn ngừa rắn độc. Nếu các vị tụng Kinh
với lòng kính tin và mở rộng lòng từ đến tất cả
chúng sinh, kể cả các loài rắn, thì sẽ không gặp
hiểm nguy. Nếu các vị còn giữ giới nghiêm túc
nữa, thì không có sự tai hại nào có thể xảy đến
với mình được.
* (Trong
một câu trả lời khác) Tôn
giả Tu Bồ Đề lại rất thành thạo trong Thiền tâm
từ. Ngài cũng nhập Thiền tâm từ ở mỗi nhà trước
khi nhận của cúng dường. Nghĩa là chỉ sau khi
xuất khỏi Thiền tâm từ, ngài mới nhận phần cúng
dường của thí chủ. Tại sao các ngài làm vậy? Vì
muốn cho thí chủ có được lợi ích cao nhất. Các
ngài biết rằng, nếu
các ngài làm thế thì thiện nghiệp vô lượng và
thù thắng sẽ khởi lên trong tiến trình tâm của
các vị thí chủ. (…).
* (Trong
một câu trả lời khác) Chúng
ta biết Niết Bàn là Visankhàra (vô hành), tức là
“không có các hành”. Các hành (sankhàra) là danh
sắc và các nhân của chúng, còn Niết Bàn thì
không có cả hai. Tâm biết Niết Bàn được gọi là
tâm không có các hành sinh, visankhàragara citta
(vô hành sinh tâm). Nhưng
tự thân nó không phải là visankhàra (vô hành);
vì hành vi thấy Niết Bàn đòi hỏi phải có sự hình
thành của tâm.
---------------
4)
GÓP PHẦN KHƠI SÁNG TƯ TƯỞNG ĐẠI THỪA
* Một
ngày nào đó của thiên niên kỉ thứ 3, con người
sẽ hỏi đâu là sự khám phá quan trọng nhất của
thế kỉ 20 đối với nền văn minh Tây phương, khi
ấy câu trả lời không phải là sự khám phá ra năng
lượng nguyên tử, cũng không phải là sự khám phá
ra những vũ trụ song đối, mà chính là sự khám
phá về trạng
thái tự do tối thượng của bản thể con người. (Question
de Albin Michel số 77/1989; Nguyễn Thế Đăng
dịch).
*
Tuyên ngôn Venise của UNESCO nói: “Khoa học hiện
đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ
của khoa học Tây phương với minh triết truyền
thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu. Sự
gặp gỡ chắc chắn xảy ra đó sẽ đem lại cho nhân
loại một
nền văn minh mới”. (Báo
Giác Ngộ số 15/1991).
* (…)
Kết luận được rút ra từ thí nghiệm này là hết
sức đặc biệt: con lắc Foucault điều chỉnh hành
trạng của nó không phải theo môi trường tại chỗ
của nó, mà là theo các thiên hà xa xôi nhất, nghĩa
là theo toàn vũ trụ, bởi vì hầu hết
khối lượng nhìn thấy của vũ trụ không phải nằm
trong các ngôi sao ở gần mà trong các thiên hà
xa xôi. Nói cách khác, cái được chuẩn bị xảy ra
ở Trái đất đã được quyết định trong khoảng vô
tận của vũ trụ, nghĩa là cái đang xảy ra trên
hành tinh nhỏ bé của chúng ta phụ thuộc vào tổng
thể các cấu trúc của vũ trụ.
Tại sao con lắc Foucault lại có hành trạng như
vậy? Cho tới nay người ta vẫn chưa tìm ra câu
trả lời. Nhà triết học và vật lí học người Áo
Ernest Mach (mà tên của ông đã được dùng làm đơn
vị đo các vận tốc siêu thanh) đã thấy ở đó một
loại hiện diện khắp nơi của vật chất và ảnh
hưởng của nó. Theo ông, khối lượng của một vật -
đại lượng đo quán tính của nó, tức là khả năng
chống lại sự thay đổi trạng thái chuyển động -
là kết quả tác động của toàn vũ trụ lên vật này.
Đây là cái mà người ta gọi là nguyên lí Mach.
Khi người ta cố sức đẩy một cái xe ôtô, thì sự
chống lại chuyển động của ôtô xuất phát từ toàn
bộ vũ trụ. Mach chưa bao giờ trình bày một cách
chi tiết sự
tác động bí ẩn đó của toàn vũ trụ và
sau này cũng chưa có ai làm được. Cũng giống như
thí nghiệm EPR đã xác lập điều đó đối với thế
giới nội nguyên tử, thí nghiệm con lắc Foucault
buộc chúng ta phải chấp nhận rằng trong thế giới
vĩ mô có tồn tại một mối tương tác có bản chất
hoàn toàn khác với những tương tác mà vật lí
hiện nay đã mô tả; tương tác này không làm xuất
hiện lực và cũng như không có sự trao đổi năng
lượng, nhưng nó gắn kết toàn bộ vũ trụ với nhau. Mỗi
bộ phận đều mang trong nó tính tổng thể và mỗi
một bộ phận đều phụ thuộc vào những bộ phận còn
lại.
(…) Sự phụ thuộc lẫn nhau của các hiện tượng = trách
nhiệm toàn vũ trụ. Một phương trình
thật cân bằng.
(…) William Blake đã diễn tả một cách hoàn hảo tính
tổng thể của vũ trụ bằng
các câu thơ sau:
“Trong hạt cát ta thấy cả vũ trụ
Trong đóa hoa dại ta thấy cả thiên đường
Nắm cái vô hạn trong lòng bàn tay
Và sự vĩnh hằng trong khoảnh khắc”.
(Trịnh Xuân Thuận-nhà vật lí thiên văn. “Cái vô
hạn trong lòng bàn tay”; đồng tác giả: Mathieu
Ricard; Phạm Văn Thiều & Ngô Vũ dịch).
* Nền
vật lí này bây giờ đã thấy vũ trụ là một mạng
lưới với những liên quan vật
chất và tâm linh chằng
chịt, mà các phần tử chỉ được định nghĩa trong
mối tương quan với cái toàn thể. (Fritjof
Capra-nhà vật lí học. “Đạo của vật lí”; Nguyễn
Tường Bách dịch).
* Đức
Đạt Lai Lạt Ma cho rằng: “Nếu người ta xem xét Thượng
Đế không
phải trên phương diện thần thánh cá nhân, mà là
với tư cách là nền tảng của bản thể, thì các
phẩm chất như lòng vị tha có thể được gắn với nền
tảng thiêng liêng này của bản thể. Nếu
người ta phải hiểu Thượng Đế theo cách này thì
sẽ có thể xác lập được những mối quan hệ gần gũi
giữa một số yếu tố của tư duy và sự thực hành
Phật giáo”. (Mathieu Ricard-nhà sinh học, tu
sĩ Phật giáo. Sách đã dẫn-đồng tác giả: Trịnh
Xuân Thuận).
* Tất
cả các tôn giáo đều gọi tên Thượng Đế theo
ngôn ngữ của mình. (Simone
Weil-nhà triết học, nhà thần bí học Kitô giáo).
* Các
nhà khoa học cũng đang quay lại và hướng sự tập
trung vào việc tìm hiểu cách thức suy
nghĩ và trạng thái của chúng ta thực sự
ảnh hưởng đến lực từ trường bên trong và xung
quanh chúng ta. (Karen Nesbitt Shanor-tiến
sĩ sinh học.”Trí tuệ nổi trội”; Vũ Thị Hồng Việt
dịch).
* Masuru
Emoto và các cộng sự đã phát hiện ảnh hưởng của năng
lượng tâm ý đối
với cấu trúc và chất lượng nước dùng làm thí
nghiệm. (Báo
Giáo Dục & Thời Đại Chủ Nhật số 47 năm 2006).
* (…)
Ở đây chúng ta có thêm một chứng minh là tất
cả chúng ta được kết nối với nhau trong cùng một
trường ý thức. Các đặc tính của trường
này vận hành lúc này và ở đây:
Trường hoạt động như một tổng thể.
Nó
liên kết các sự kiện cách xa ngay tức thời.
Nó
nhớ mọi sự kiện.
Nó
tồn tại ngoài thời gian và không gian.
Nó
sáng tạo toàn vẹn bên trong mình.
Sáng tạo của nó lớn lên và mở rộng theo hướng
tiến hóa.
Nó
là ý thức.
(…) Trường
ý thức là cơ sở của mọi hiện tượng trong tự
nhiên bởi vì khe hở tồn tại giữa mọi
electron, mọi
ý nghĩ, mọi khoảnh khắc thời gian. Khe
hở là
điểm khống chế, sự
tĩnh lặng ở tâm của
sáng tạo, nơi
vũ trụ liên kết mọi sự kiện.
(…) Chúng ta cần nhớ nguồn
gốc chung của
mình. Tinh thần con người suy thoái khi chúng ta
hạn chế mình trong một kiếp người và giam trong
một thể xác. Trước
hết chúng ta là tâm trí và tinh thần,
và điều đó đặt ngôi nhà của chúng ta ra sau các
vì sao. (Deepak
Chopra-tiến sĩ y học, nhà nghiên cứu tâm linh.
“Sự sống sau cái chết: gánh nặng chứng minh”;
Trần Quang Hưng dịch).
* Nếu
giác ngộ đã làm cho toàn thể vũ trụ rung chuyển
sáu cách khác nhau như kinh chép, thì vô minh
khi chưa bị hàng phục ắt
vẫn có đủ thần lực ấy, dầu rằng vì bản
chất và hiệu lực, thần lực ấy diễn ngược lại hẳn
với giác ngộ. (Daisetz
Teitaro Suzuki-thiền sư học giả. “Thiền luận I”;
Trúc Thiên dịch).
* (…)
Sự sống và cái chết thay đổi luôn là để nhanh
chóng thay con người độc ác, ích kỉ và hám danh
bằng một người khác với hi vọng, sau khi con
người ở Cõi kia bị thần linh “trừng phạt” sẽ đầu
thai tái sinh trở thành người tốt hơn, thiện
hơn. Vì
vậy có lẽ huyền thoại về địa ngục và thiên
đường có cơ sở.
(…) Thầy Đa-ram nói: Năng lượng linh hồn là năng
lượng ở ngoài electron và ngoài proton. Nhưng
tâm năng mạnh mẽ vô cùng, nó có khả năng tác
động lên lực hấp dẫn. Năng lượng của nhiều tâm
có một sức mạnh lớn lao. Có tâm năng tích cực và
tâm năng tiêu cực, chúng gắn liền với nhau.(…) Tâm
năng tiêu cực (xấu ác) có thể thu hút các đối
tượng phá phách của vũ trụ, tác động lên thiên
nhiên. Bởi vậy, cùng với xung đột và
chiến tranh, khá thường xuyên xảy ra động đất,
rơi thiên thạch….
(…) Chúng ta cần nhớ rằng, lòng thiện và tri
thức sẽ thúc đẩy quá trình hiện thực hoá dự báo
tích cực về sự phát triển của loài người; còn
cái ác và thói hám quyền có thể dẫn đến thảm hoạ
toàn cầu trong tương lai, kể cả ngày tận thế,
hoặc tạo điều kiện phát triển yếu tố thụt lùi,
dẫn đến hoá hoang.
(…) Tôi tin rằng, trong tương lai, những
lực lượng tích cực trên
Trái đất sẽ áp đảo lực lượng tiêu cực và sẽ
không có thảm hoạ toàn cầu. (Erơnơ
Munđasep-giáo sư tiến sĩ y học, nhà bác học lớn
quốc tế. “Chúng ta thoát thai từ đâu”; Hoàng
Giang dịch).
* Muốn
chuyển hoá thế giới, chuyển hoá sự khốn khổ,
chiến tranh, nạn thất nghiệp, nạn đói, sự phân
chia giai cấp và tất cả sự hỗn loạn khắp nơi thì
chúng ta phải chuyển hoá chính bản thân mình.
Cuộc cách mạng (tâm lí) phải
bắt đầu được nhóm dậy trong chính tâm tư mình,
chứ không phải lệ thuộc vào bất cứ tín ngưỡng
hay ý thức hệ nào (…). (Jiddu
Krishnamurti-danh nhân giác ngộ. “Tự do đầu tiên
và cuối cùng”; Phạm Công Thiện dịch).
* Mười
phương thế giới thu vào một
điểm hiện tiền; quá khứ, hiện tại, vị
lai tụ trongmột niệm đương thời.
Dù ở giữa hàng chư thiên cũng không có niềm vui
nào so được với đây; ở loài người lại càng hiếm
lắm. Sự tiến bộ như thế trong đời sống tâm linh
có thể thâu đạt được chỉ
trong vài bữa, nếu hành giả dốc lòng tu
tập. (Bạch
Ẩn-thiền sư. Trích trong Thiền Luận II; Daisetz
Teitaro Suzuki; Tuệ Sỹ dịch).
* Tột
trước cùng sau trở về niệm
hiện tiền. (Kinh
Lăng Già Tâm Ấn; Thích Thanh Từ dịch).
* Tri
huyễn tức li, li huyễn tức giác. (Kinh
Viên Giác). (Tri
huyễn là nghe và thấy rõ mọi động niệm của tâm
ý. Nghe và thấy rõ vọng tưởng thì vọng tưởng tự
tịnh, tánh Viên Giác hiện tiền.- “Thiền tịnh tự
tri”; Tuệ Thiền; 4phuong.net).
* “Tự
tri-tỉnh thức-vô
ngã” là
đạo lí của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa
cuộc sống, là Thiền; mang năng lượng tích cực có
lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí
tuệ-tâm linh chung của tất cả.
(…) Viên mãn “tự tri-tỉnh thức-vô ngã” rất khó,
nhưng chỉ có hướng đến đó mới xây dựng được mẫu
số chung cho nhân cách, cho ý nghĩa cuộc sống.
Chỉ có hướng đến đó mới tạo nên tiếng nói chung
cho hoà bình, công bằng, nhân ái - thật sự biết
tôn trọng nhau giữa người với người.
(…) “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là minh
sư vĩ đại nhất của
chính mình.
(…) Không tôn trọng phương tiện thăng hoa tâm
linh của người khác thì chưa có tâm thái hòa
bình và tỉnh thức.
(…) Nên thấu hiểu rằng, lòng tự hào tôn giáo
cũng là cái “tôi” hiếu chiến vô minh.(Đường
Về Minh Triết; Tuệ Thiền Lê Bá Bôn;
4phuong.net).
----------
5)
NHÀ KHOA HỌC KỂ LẠI CÂU CHUYỆN TÂM LINH
(Đọc
trong Sự Sống Sau Cái Chết: Gánh Nặng Chứng
Minh; Deepak Chopra; tiến sĩ y học; được tạp chí
Time bình chọn là một trong 100 anh hùng và biểu
tượng của thế kỉ XX. Dịch giả: Trần Quang Hưng;
NXB Văn Hoá Sài Gòn, 2010).
(Ông
nói: Trường
ý thức là cơ sở của mọi hiện tượng trong tự
nhiên bởi vì khe hở tồn tại giữa mọi
electron, mọi
ý nghĩ,
mọi khoảnh khắc thời gian. Khe
hở là
điểm khống chế, sự
tĩnh lặng ở tâm của
sáng tạo, nơi vũ trụ liên kết mọi sự kiện).
Câu chuyện, đã trở thành nổi tiếng trong tài
liệu cận tử, thuộc về một nghệ sĩ tên là
Mellen-Thomas Benedict chết vì u não năm 1982.
Việc ông chết một tiếng rưỡi rồi hồi tỉnh thật
không thể tin được đối với các tiêu chuẩn phương
Tây. Trong Phật giáo Tây Tạng ông có thể được
coi là một delog, và các kinh nghiệm của
Benedict chi tiết như mọi câu chuyện của các
delog khác. Tôi sẽ kể chi tiết câu chuyện này vì
cuộc du hành của Benedict thực sự đã cung cấp cả
một bách khoa toàn thư về cõi sau sự sống.
Ông phát hiện ra mình ở bên ngoài thể xác,
nhận biết rằng thi thể vẫn nằm trên giường. Lĩnh
hội mở rộng-ông có thể nhìn bên trên, xung quanh
và bên dưới ngôi nhà của mình-và ông cảm thấy
mình bị bao bọc trong bóng tối, nhưng chẳng bao
lâu một ánh sáng chói lòa trở nên rõ rệt. Ông di
chuyển về hướng ánh sáng, biết rằng nếu rơi vào
đó ông sẽ chết.
Tại điểm này, Benedict đã ra một quyết định kinh
ngạc. Ông đề nghị kinh nghiệm dừng lại và nó
dừng lại. Việc ông tìm cách khống chế những gì
xảy ra sau cái chết có thể không làm một rishi
ngạc nhiên, nhưng nó gần như duy nhất trong tài
liệu cận tử. Benedict ra lệnh dừng lại như vậy
để ông có thể nói chuyện với ánh sáng. Trong khi
ông hành động như vậy, ánh sáng thay đổi hình
dạng liên tục, khi thì tạo nên hình Chúa Trời
hay Đức Phật, khi thì chuyển thành các hình thù
phức tạp như đàn tràng mandala hoặc các hình ảnh
nguyên bản và các kí hiệu như ông muốn. Ánh sáng
nói với ông (hay chính xác hơn là truyền thông
tin vào tâm trí ông) rằng người chết được cho
“một vòng liên hệ ngược” của các hình ảnh tương
xứng với hệ thống tín ngưỡng riêng họ: tín đồ
Thiên Chúa giáo nhìn thấy các hình ảnh Thiên
Chúa giáo, Phật tử nhìn thấy các hình ảnh Phật
giáo… Là một cái vòng, người chết có thể đi vào
bên trong kinh nghiệm và tạo hình nó, như
Benedict đã làm. (Ánh sáng giải thích rằng ông
là một ca hiếm; đa số người ta đi tiếp mà không
hỏi gì cả).
Việc Benedict nhìn thấy nhiều hình ảnh hoán đổi
nhau có thể liên quan tới niềm say mê các tôn
giáo và truyền thống tâm linh của thế giới sau
khi ông bị chẩn đoán mắc ung thư. Sau đó
Benedict nhận ra cái ông nhìn thấy thực ra là ma
trận Bản
Ngã Tối Cao, mà ông mô tả là “mandala
của linh hồn con người”; chính
là hình mẫu vũ trụ của ý thức. Ông nhận
ra mỗi
người có Bản Ngã Tối Cao là siêu linh mà cũng là
kinh mạch trở về nguồn. Những thuật ngữ
này, gần như không thay đổi, nghe giống Vedanta
thuần túy. Điều này gây nên sự ngờ vực, bởi vì
Benedict có thể bị các kinh sách Ấn Độ ông đọc
cách đó không lâu ảnh hưởng mạnh mẽ. Tuy nhiên,
về phía ông, kinh nghiệm đã trải qua là hoàn
toàn bột phát và hiện thực.
Chăm chú nhìn ma trận của các linh hồn, Benedict
nhận ra là tất cả chúng liên kết với nhau; nhân
loại hình thành một tồn tại; mỗi
chúng ta là một khía cạnh của tổng thể này.
Ông bị lôi kéo vào cái ma trận mà ông mô tả là
đẹp không tả xiết. Nó
toát ra một tình thương trị liệu và bổ dưỡng xâm
chiếm ông. Ánh sáng truyền đạt tới ông rằng ma
trận linh hồn hình thành một mức năng lượng vi
diệu bao bọc quanh trái đất và ràng buộc mọi
người lại với nhau. Benedict đã mất hàng chục
năm dồn hết tâm trí vào lĩnh vực giải trừ vũ khí
hạt nhân và sinh thái học, nhưng vấn đề khó khăn
khiến ông hết sức bi quan. Ông nói giờ đây ông
được đối diện với vẻ đẹp thuần khiết của mỗi
linh hồn con người và thật bàng hoàng.
Ông đặc biệt kinh ngạc khi không có linh hồn nào
chứa đựng cái ác, và ánh sáng cho ông biết linh
hồn không thể nào độc ác di truyền. Sự
kiếm tìm tình yêu nằm trong mọi hành vi của con
người, và khi người ta bị lôi kéo vào những hành
vi tồi tệ, nguyên nhân gốc rễ là thiếu tình
thương. Khi ông hỏi như thế có phải là
nhân loại có thể được cứu rỗi, một hồi kèn vang
lên trong ánh sáng xoáy ốc, và Benedict được
nhắn nhủ rằng chớ bao giờ quên câu trả lời: loài
người đã được cứu rỗi, dù cho tình hình hiện tại
có vẻ kinh khủng đến thế nào đi chăng nữa.
Benedict trải nghiệm sự khoan khoái tột độ khi
ông bị hút sâu hơn vào ánh sáng, đạt tới vùng
khác vi diệu hơn và bao la hơn nhiều. Ông nhìn
thấy một “dòng ánh sáng khổng lồ, thoáng đạt và
chan chứa sâu trong trái tim sự sống”. Khi ông
hỏi cái gì đấy, ánh sáng trả lời rằng đó là dòng
sông sự sống và ông cần uống nước từ đó để trái
tim mình thỏa mãn.
Tràn ngập nỗi tò mò vô hạn, bây giờ ông xin ánh
sáng hé mở cho ông cả vũ trụ “phía sau mọi ảo
ảnh nhân loại”. Ông được đề nghị cưỡi lên dòng
sự sống, và khi thực hiện, ông vừa vượt qua một
đường ngầm và nghe thấy “những tiếng động nhẹ
nhàng”. Tốc độ của ông vượt quá tốc độ ánh sáng
khi ông rời khỏi hệ mặt trời, xuyên qua tâm giải
Ngân hà, và nhận
biết vô số thế giới và nhiều hình thái sự sống,
tất cả trong một sự hối hả chóng mặt. Ở đây
Benedict có một phát hiện quan trọng, rằng điều
tưởng như là du hành xuyên qua vũ trụ thực ra
chỉ là mở
rộng ý thức của chính mình. Sự hiện
diện của các ngân hà và tinh vân lướt qua chính
là ý thức của ông trôi qua hết giới hạn
không-thời gian này đến giới hạn khác.
Benedict mô tả toàn
bộ các dải ngân hà mất hút vào một điểm,
về các hình thái sự sống bộc lộ sự tồn tại của
chúng, về một ánh sáng thứ hai chứa đựng mọi
rung động trong vũ trụ. Theo các rishi Veda, đó
là các
rung động nguyên thủy mà từ đó vạn vật xuất hiện,
có nghĩa là Benedict đã là nhân chứng của chính
hoạt động ý thức. Benedict đã tìm được ngôn ngữ
riêng của mình cho giai đoạn này, khi nói rằng
ông đối mặt với hình ảnh ba chiều của vũ trụ.
Khi đi vào vùng ánh sáng thứ hai, ông thể nghiệm
sự chuyển biến sang im lặng và tuyệt đối bất
động. Có một điều xảy ra là ông có thể nhìn thấy
vô tận. Ông ở trong trống rỗng, hoặc là tiền
sáng thế như cách ông gọi, và ý
thức của ông vô hạn. Ông đã tiếp xúc
với cái tuyệt đối không phải là một kinh nghiệm
tôn giáo mà là một trong những nhận thức không
ràng buộc. Ông nhận thấy vạn vật tự phát sinh
không có bắt đầu hay kết thúc. Thay vì một Big
Bang, sự kiện duy nhất đã tạo ra vũ trụ,
Benedict nhận thấy hàng triệu Big Bang liên tục
sản sinh ra những vũ trụ mới. Bởi vì ông ở ngoài
thời gian, điều này xảy ra đồng thời ở khắp mọi
hướng.
Sau khi đạt đến sự diện hiện vũ trụ này, cuộc du
hành của Benedict tự quay về, từng bước một, và
ông thức dậy trên giường mình tại nhà với nhận
thức không lay chuyển, giờ đây rất giống trong
tài liệu kinh nghiệm cận tử, rằng cái
chết là ảo giác.
Ông Benedict đã đồ rằng sẽ trở về cõi trần là
một đứa bé, với một kiếp sống mới. Thế nhưng khi
mở mắt ra, ông vẫn có cơ thể cũ, cái cơ thể đã
chết hơn một tiếng đồng hồ theo lời kể của nhân
viên nhà tế bần có mặt lúc đó (ở đó không có máy
đo đạc hay bác sĩ). Nhân viên nhà tế bần, người
khóc bên xác Benedict, cam đoan với ông rằng ông
đã có mọi dấu hiệu của cái chết, kể cả cơ thể
lạnh cứng dần. Một ống nghe khoách đại không
phát hiện ra nhịp tim. (Dưới góc độ y học, xác
nhận này tự thân quá kì quặc khiến một người
hoài nghi phải trừ hao mọi phần khác trong câu
chuyện của Benedict).
Mặc dầu lúc đầu bị mất phương hướng ghê gớm, ông
Benedict cảm thấy dễ chịu hơn là trong cuộc sống
trước kia. Phải mất ba tháng ông mới dám liều đi
chụp não lại, dễ hiểu là ông lo ngại về khối u-nhưng
lại nhận được những tin tuyệt vời. Mọi dấu vết
của khối u ác tính đã biến mất, vị bác sĩ chuyên
khoa ung thư giải thích đó là sự thuyên giảm tự
phát, một trường hợp u ác tính tự tiêu biến rất
hãn hữu. Đây là sự lãng tránh vấn đề khỏi bệnh
thông qua cái chết chưa từng bắt gặp trong sách
y học, và hiện tượng khỏi bệnh ung thư ác tính
cấp, như tôi được biết, là hiếm xảy ra nhất.
----------
6)
TRÍCH ĐOẠN GÓP THÊM CẢM HỨNG ĐẠI THỪA, GIÁC NGỘ
Một số trích đoạn (tùy hứng) từ Sự Sống Sau Cái
Chết, một tác phẩm có giá trị lớn của ngài
Deepak Chopra – một nhà khoa học đáng kính, một
hành giả có sự chứng ngộ.
* (…)
Vũ trụ mà tôi và bạn thể nghiệm bây giờ, với cây
cối, nhà máy, con người, nhà cửa, xe cộ, hành
tinh và các thiên hà, chính là ý thức biểu hiện
ở một tần số đặc biệt nào đó. Đâu đó trong thời
không có những bình diện khác nhau đồng thời tồn
tại. (…) Các
bình diện tồn tại khác nhau tương ứng với các
tần số ý thức khác nhau. Thế giới vật
chất chỉ là biểu hiện của một tần số nhất định.
(…) Thế kỉ 20, khoa học phương Tây tìm hiểu ra
rằng mọi vật thể rắn thực ra đều được tạo nên
bởi những rung động vô hình. (…) Cũng đúng như
các bình diện khác nhau của vật chất, tinh thần
cũng có những bình diện khác nhau. (…) Nếu
Trái đất là bình diện tinh thần đậm đặc, thì
chắc chắn phải có những bình diện tinh thần cao
hơn, chúng tôi gọi là Loka, mà giới
thần bí học phương Tây biết đến như “bình diện
siêu hình”. Các
bình diện siêu hình có số lượng dường như vô tận
này chia ra thành các thế giới siêu hình cao hơn
và thấp hơn, và thậm chí thế giới thấp
nhất cũng rung động với tần số cao hơn thế giới
vật chất.
* Để
tìm ra vật chất và năng lượng đến từ đâu, vật lí
học thừa nhận một trường vũ trụ chứa đựng không
chỉ những gì chúng ta quan sát thấy mà cả mọi
thứ có khả năng tồn tại.
Vật lí hiện đại thấy thật dễ dàng làm thế giới
vật chất biến mất trong hư vô, nhưng điều này
gây hoang mang, cũng hoang moang như sự biến mất
của người chết. Đây là cách biến mất của hòn đá,
cây cối, hành tinh hay hệ thiên hà hoạt động.
Trước hết, hòn đá, cây cối hay hành tinh biến
mất khỏi tầm nhìn khi các nhà khoa học nhận ra
rằng các vật chất thể rắn được tạo nên từ các
nguyên tử không thể phát hiện bằng mắt thường.
Thứ hai, các nguyên tử biến mất khi người ta
phát hiện ra rằng chúng được tạo nên từ năng
lượng, đơn giản là các rung động trong trống
rỗng.
Cuối cùng, năng lượng biến mất khi người ta phát
hiện ra rằng các
rung động là sự kích thích tạm thời trong một
trường và trường đó tự nó không rung động mà duy
trì một “điểm không” phẳng và bất biến.
(…).
(…) Hỗn nguyên vì sao không hoàn toàn chiếm ưu
thế thực
sự vẫn là một bí ẩn lớn chỉ có thể được lí giải
bởi Akasha (trường
ý thức). (…). Các rishi tập trung vào ý
thức như một nguyên lí vũ trụ. Nhưng để
có một vũ trụ biết tư duy, họ cần phải giải
thích trí
tuệ vũ trụ hoạt
động như thế nào, tự duy trì và tự tổ chức tư
duy ra sao. Nếu “trường trí tuệ” hoàn toàn ổn
định, nó sẽ là một vùng chết, hoặc nhiều nhất là
chứa một tiếng ồn liên tục, vô nghĩa. (…).
(…) Từng bước một, vật lí học bị lôi cuốn vào hư
vô bởi vì không có gì trong thế giới hữu hình
phù hợp để giải thích điều cần được giải thích. Điểm
không trở thành “trường của trường” chứa đựng
mọi hạt vô hình, hoặc ảo, trong vũ trụ.
Theo tính toán, điểm không chứa năng lượng 10
lũy thừa 40 lần nhiều hơn vũ trụ hữu hình-tức là
40 số không sau số 1. Hư
vô trở thành sự trao đổi năng lượng sôi sục,
không chỉ giữa các photon và electron mà trong
mọi sự kiện lượng tử có thể hình dung được. Đột
nhiên cái vô hình trở nên mạnh mẽ hơn cái hữu
hình một cách lạ thường. Nhưng với cách đó “trường
của trường” có giống tâm trí, điều mà
các rishi đang tìm kiếm hay không?
(…) Cái
thực tế rằng những khoảng không, hay khe hở,
giữa các vật liệu gene thật là quan trọng đưa
chúng ta trở lại hư vô, nơi có cái gì đó sắp xếp
các sự kiện ngẫu nhiên sao cho chúng có ý nghĩa.
(…) Có những việc khác mà trí óc có thể thực
hiện tương tự như trong vũ trụ, Trí óc có thể
theo dõi hai sự kiện riêng biệt trong thời
gian-ví dụ chúng ta làm thế nào nhận ra một
khuôn mặt đã nhìn thấy vài năm trước. Tương tự
như vậy, vũ trụ theo dõi hai electron trong một
đôi bất kì. Chúng sẽ luôn luôn là một đôi thậm
chí chúng cách xa nhau hàng triệu năm ánh sáng.
Thật lạ thường, nếu một electron trong đôi thay
đổi vị trí hay trục quay thì cái khác trong đôi
cũng thay đổi cùng một lúc mà không cần phải
truyền một tín hiệu nào đó du hành qua không
gian. Trường
Điểm Không truyền tin không theo thời gian,
khoảng cách hay vận tốc ánh sáng. (…).
(…) Vì mục đích tìm kiếm bằng chứng cho cõi sau
sự sống, việc chỉ ra ý
thức tồn tại khắp nơi là
vấn đề sống còn, bởi vì lúc đó không có nơi nào
chúng ta đến sau khi chết mà không có ý thức.
(…) Nếu
tâm trí của chúng ta có thể thay đổi trường
lượng tử thì sao? Khi
đó chúng ta sẽ có mối liên kết giữa hai mô hình,
tư duy và vật chất. Mối liên kết này đã được
thực sự đưa ra bởi Helmut Schmidt, một nhà
nghiên cứu làm việc cho phòng thí nghiệm không
gian của hãng Boeing tại Seattle. (…) Schmidt
đã chứng tỏ rằng một người quan sát có thể thay
đổi hoạt động trong trường lượng tử bằng việc
chỉ sử dụng tâm trí, điều này ủng hộ khả năng
tại một tầng sâu nào đó tư duy và vật chất là
một. Khẳng định của các rishi rằng
chúng ta nằm trong trường Akasha (trường
ý thức) có
vẻ đáng tin hơn, nó
khiến cho khả năng chúng ta không rời bỏ trường
này sau khi chết cũng trở nên đáng tin hơn;
nếu không chúng ta sẽ là thứ duy nhất trong Tự
nhiên không là thành phần của trường này. (…).
(…) “Ở cấp độ sâu sắc nhất, các nghiên cứu
(Princeton) cũng giả định rằng hiện
thực do mỗi người trong chúng ta tạo ra duy chỉ
bằng sự chú ý của mình. Ở cấp thấp nhất
của tư duy và vật chất, mỗi
người trong chúng ta đang sáng tạo thế giới”.
(L.M.Taggart). (…).
(…) Akasha
có thể được lí giải là một vùng nơi tâm trí hoạt
động.
(…) Thứ gì đó sắp xếp chính xác đến vậy điều cần
một nguyên lí để giữ chúng cùng nhau và một môi
trường để đưa thông tin từ một đầu của tạo hóa
đến đầu kia. Khái niệm cũ về thinh không không
đủ, nhưng
Akasha (trường
ý thức) thì
đủ.
(…) Mỗi
rung động gửi những tín hiệu qua trường, và đến
lượt mình trường gửi các tín hiệu ngược lại.
Vũ trụ, hóa ra liên tục tự giám sát mình bằng
cách phối hợp mọi rung động xảy ra bất cứ đâu
trong vùng hữu hình hay vô hình.
(…) Chỉ
dưới sự quan sát, một electron nhảy từ hiện thực
ảo vào vũ trụ hữu hình, và hễ khi người quan sát
ngừng nhìn, nó lại rơi ngược vào trường.
(…) Các rishi tuyên bố rằng chết
cho phép chúng ta nhìn thấy hiện thực vĩnh hằng
rõ ràng và tham gia vào nó đầy đủ hơn.
Trong cơ cấu của Laszlo, trường
Akasha (trường
ý thức) hoạt
động y hệt đối với mọi vật chất, năng lượng và
thông tin. Các tương tác của chúng
trong vũ trụ hữu hình là những phản ánh của các
mối liên hệ vô hình có tầm quan trọng lớn hơn
nhiều xảy ra ngoài sân khấu. (…).
(…) Khi bạn xem ti vi, cái gì hiện thực hơn,
hình ảnh bạn nhìn thấy hay là trạm phát tín
hiệu? Tất nhiên là trạm phát hiện thực hơn, bức
tranh chỉ là hình ảnh. Tương tự như vậy, Laszlo
nói, Trường
Điểm Không-Akasha-hiện thực hơn vũ trụ hữu hình. Akasha(trường
ý thức) tổ
chức và phối hợp mọi phóng chiếu chúng ta gọi là
thời gian, không gian, vật chất và năng lượng.
(…).
(…) Đặt vào các điều kiện của loài người, chúng
ta không cần phải sợ cái chết là một hành vi
biến mất bởi vì sự
sống luôn là một. Điều
chúng ta quý nhất trong chính mình, khả
năng của chúng ta suy nghĩ và cảm nhận,
không phải có từ lúc đi vào thế giới vật chất.
Nó được chiếu vào thế giới vật chất từ một
nguồn, Trường
Điểm Không, là gốc rễ của ý thức, mở
rộng hàng tỉ năm về trước và hàng tỉ năm về sau
có thể dự đoán được. Hoàn toàn không phải là
nhãn quan tôn giáo, mô
hình này giải thích vũ trụ tốt hơn bất kì mô
hình nào khác, và cho chúng ta thứ mà
các rishi và các nhà vật lí học hiện đại đòi
hỏi: cây cầu bắc giữa tư duy và vật chất.
* Ngưỡng
cửa của nguồn là im lặng. Nhưng bạn
phải bước qua ngưỡng cửa vào phòng nơi hiện thực
sinh ra. Ở đó bạn phát hiện ra rằng sáng tạo bắt
nguồn từ tồn
tại, ý thức và tiềm năng cho
các rung động nảy sinh. Ba điều này hiện thực
nhất trong vũ trụ bởi vì tất cả cái khác chúng
ta gọi là hiện thực đều từ đó mà ra. (…).
(…) Hiện nay quần chúng được biết rõ là các
nghiên cứu về cầu nguyện chứng nhận là nó có tác
dụng. Trong một thí nghiệm đặc trưng, những
người tình nguyện, thường chọn trong các nhóm
nhà thờ, được đề nghị cầu nguyện cho người ốm
trong bệnh viện. (…) . Kết quả của các thí
nghiệm này lạc quan đến kinh ngạc. Trong một
trường hợp biết rõ nhất, tiến hành tại Đại học
Tổng hợp Duke ở Bắc Carolina, các bệnh nhân được
cầu nguyện nhanh chóng phục hồi hơn và có ít di
chứng hơn các bệnh nhân không được cầu nguyện. Ở
đây chúng ta có thêm một chứng minh là tất cả
chúng ta được kết nối với nhau trong cùng một
trường ý thức. Các đặc tính của trường
này vận hành lúc này và ở đây:
Trường
hoạt động như một tổng thể.
Nó
liên kết các sự kiện cách xa ngay tức thời.
Nó
nhớ mọi sự kiện.
Nó
tồn tại ngoài thời gian và không gian.
Nó
sáng tạo toàn vẹn bên trong mình.
Sáng tạo của nó lớn lên và mở rộng theo hướng
tiến hóa.
Nó
là ý thức.
(…)Trường ý thức là cơ sở của mọi hiện
tượng trong tự nhiên bởi vì khe hở tồn tại giữa mọi
electron, mọi
ý nghĩ, mọi khoảnh khắc thời gian. Khe
hở là
điểm khống chế, sự
tĩnh lặng ở tâm của
sáng tạo, nơi vũ trụ liên kết mọi sự kiện.
(…) Chúng ta cần nhớ nguồn
gốc chung của
mình. Tinh thần con người suy thoái khi chúng ta
hạn chế mình trong một kiếp người và giam trong
một thể xác. Trước
hết chúng ta là tâm trí và tinh thần,
và điều đó đặt ngôi nhà của chúng ta ra sau các
vì sao.
Biết rằng rồi một ngày mình sẽ quay về vùng để
tìm nguồn gốc khiến tôi tự tin vô hạn vào mục
tiêu cuộc sống. Cũng nhiệt thành như
một tín đồ sùng đạo, tôi tin vào quan niệm này.
Lòng tin của tôi luôn đổi mới mỗi lúc tôi có một
khoảnh khắc chứng nghiệm đưa tôi chạm
đến sự tĩnh lặng tồn tại của chính mình.
Khi đó tôi không còn mảy may sợ hãi cái chết –
mà thực ra, tôi đang chạm vào cái chết ngay lúc
này, một cách vui vẻ. Nhà thơ Tagore nói về nó
hết sức xúc động:
“(…) Và bởi vì tôi yêu cuộc sống này / Tôi cũng
sẽ yêu luôn cái chết”.
*
Khoa học ủng hộ tuyên bố rằng trường có khả năng
nhảy vọt sáng tạo và chuyển hóa vô tận. (…).
(…) Hóa ra nếu anh chỉ
cần nghĩ về cỗ
máy SQUID, không hề tìm cách thay đổi nó, thiết
bị ghi cho thấy sự
thay đổi trong từ trường xung quanh.
(…).
* (…)
Những người nghi ngờ khả năng tâm linh đặc dị
làm ngơ trước vô
số những nghiên cứu cho thấy ý nghĩ thông thường
có thể thực sự tác động đến thế giới.Điều
này đặc biệt quan trọng nếu tâm trí là trường.
* (…)
Các bậc thánh nhân và hiền nhân có đặc quyền
hiện diện đi đó đây tự do trong các cõi siêu
hình mà không bị hạn chế bởi các ham muốn. Những
linh hồn bấn loạn mắc kẹt giữa hai thế giới, và
nếu những người thương yêu bị bỏ lại cứ cầu
nguyện gọi hồn, cứ đau khổ, hoặc toan tính tiếp
xúc với người đã mất, linh hồn sẽ tiếp tục xốn
xang.
* (…)
Khoa học trong thời đại vật lí lượng tử không
phủ nhận sự tồn tại của các thế giới vô hình.
Hoàn toàn ngược lại.
*
(…) Tiếp theo, như người chết đuối nhìn thấy cả
cuộc đời mình trôi qua trước mắt,nghiệp của
một người bung ra như chỉ gỡ khỏi suốt, và các
sự kiện của cuộc đời này diễu ngược lại qua màn
ảnh của tâm trí. Bạn thể nghiệm lại tất cả các
thời điểm trọng đại từ khi sinh ra, chỉ có điều
lúc này rất sinh động và rõ ràng khiến bạn nhìn
thấy chính xác từng thời điểm có nghĩa gì. Cái
đúng và sai cũng hiển hiện rõ ràng, không có sự
tha thứ hay những giải thích duy lí. Bạn chịu
trách nhiệm cho mọi điều đã làm. (…).
* Có
thể là ý thức không nằm trong bộ não. Đó là một
khả năng gây sửng sốt, nhưng phù hợp với truyền
thống tâm linh cổ đại nhất thế giới.
(…) Điều làm cho sự đảo ngược này quan trọng là
nó phù hợp thực tế. Các nhà thần kinh học chứng
thực rằng đơn
giản một ý định, một hành vi có mục đích của ý
chí có thể thay đổi bộ não. Ví dụ những
nạn nhân đột quỵ, có thể ép mình, với sự giúp đỡ
của bác sĩ, chỉ sử dụng tay phải của họ nếu
chứng liệt xảy ra về bên đó của cơ thể. (…).
* (…)
Ramana học cách nhập
nội trong cái định để thể nghiệm im lặng,
và sau nhiều năm, nó đến với anh, nơi giải
thoát khỏi hoạt động thường xuyên của tâm trí.
(…).
----------
7) THIỀN NGÔN CỦA CÁC MINH SƯ (*)
Chùm
1:
* Tất
cả nhân loại không quý gì bằng sinh mệnh, sinh
mệnh được coi trọng nhất trên trần gian này. Bởi
vì tất cả của cải sự nghiệp, danh vọng tài sắc…
đều để tô điểm cho sinh mệnh. Mất sinh mệnh, tất
cả cái ấy trở thành vô nghĩa. Song sinh mệnh con
người thời nay, nếu kéo dài lắm chỉ trong vòng
bảy tám mươi năm. Cái đau khổ nhất của con người
là khi nghe mình sắp mất sinh mệnh. (…) Thực là
mối đau khổ truyền kiếp không ai thoát được. Nếu
có một phương
pháp nào khiến
con người thoát được cái chết thì trên nhân gian
này còn gì quý bằng! Ở đây chúng tôi xin giới
thiệu quý vị phương thuốc hi hữu duy nhất trên
đời, nếu quý vị uống nó vào thì “bất tử”, chính
là tánh giác của quý vị đấy.Người giác
ngộ tánh giác là nhận ra được cái “bất tử”.
Vì thế tánh giác này được Phật dụ là hòn ngọc
như ý. Được hòn ngọc này rồi, con người dứt sạch
mọi đau khổ; mọi mong cầu đều toại nguyện. (Thiền
sư Thích Thanh Từ) – (Thiền Tông VN Cuối Thế Kỉ
20; Thích Thanh Từ).
* Lục
Tổ nói lên câu đầu tiên liên quan đến sự chứng
nghiệm của Tổ là “xưa nay không một vật” và sau
đó là “kiến tánh”, cái tự
tánh vì là “không một vật” nên
là “Không”. Vì thế “thấy tánh” là “thấy Không”
như Thần Hội nói. (Thiền
sư Daisetz Teitaro Suzuki) -
(Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn Kinh); D.T.Suzuki; dịch
giả:Thuần Bạch).
*
Trước Big Bang thời gian chưa trôi: mỗi giây
tương ứng với vĩnh cửu. Chúng ta ước đoán thế vì
vật lí lượng tử xuyên qua ảo ảnh thời gian, tách
khỏi đồng hồ nguyên tử để đi sâu hơn vào nhà máy
Tự nhiên. Rung động dừng lại tại mức độ sâu
nhất. Đáy của vũ trụ giống như bộ não chết. Tuy
nhiên biểu hiện của cái chết là ảo giác, vì biên
giới nơi mọi hoạt động chấm dứt đánh dấu sự bắt
đầu một vùng mới, gọi là thực tại ảo – nơi vật
chất và năng lượng tồn tại dưới dạng tiềm
năng thuần
tuý. Cơ sở của thực tại ảo rất phức tạp nhưng
nói một cách đơn giản nhất, vùng
phi vật chất phải tồn tại để sinh ra vũ trụ vật
chất. Vùng này trống
rỗng nhưng không hề hư vô. (…) Sáng tạo
nhảy vọt từ trống rỗng lên đầy tràn, cũng như
vĩnh cửu nhảy vọt từ phi thời gian sang đầy tràn
thời gian.
Nếu vĩnh
hằng đang
cùng với ta bây giờ, làm cơ sở cho toàn bộ tồn
tại vật chất, nó phải làm cơ sở cho tôi và bạn. (Tiến
sĩ y học Deepak Chopra) - (Sự Sống Sau Cái Chết;
Deepak Chopra; dịch giả: Trần Quang Hưng).
*
Trong Truyền Đăng có chép rằng: “Thượng thư Ôn
Tháo hỏi ngài Khuê Phong: Người ngộ lí, một phen
tuổi thọ hết, gá nương chỗ nào? Khuê Phong đáp:
Tất cả chúng sinh đều có đầy đủ linh minh tánh
giác, cùng với chư Phật không khác. Nếu hay ngộ
tánh này tức là pháp thân, vốn tự vô
sinh có gì nương gá? Cái linh minh chẳng muội,
rõ ràng thường biết, không chỗ đến cũng không
chỗ đi. Chỉ lấy không - tịch làm
tự thể, chớ nhận sắc thân. Lấy linh
tri làm
tự tâm, chớ nhận vọng niệm. Vọng niệm nếu dấy
lên đều không theo nó, đến lúc mạng chung, khi
ấy nghiệp tự nhiên không thể cột. Tuy có thân
trung ấm mà chỗ đến tự do. Cõi
người cõi trời tuỳ ý gửi nương. Đây tức
là chơn tâm trước và chỗ đến của thân sau vậy”. (Thiền
sư Phổ Chiếu) – (Chơn Tâm Trực Thuyết; Phổ
Chiếu; dịch giả: Thích Đắc Pháp).
* Vì
nhục thể rữa nát khi chết, linh hồn rời đi nhập
vào giới siêu hình tương ứng với sự tồn tại của
nó ở bình diện vật chất, vào
tần số tương ứng với cuộc sống cũ của nó nhất.
(…) Quá trình biến đổi sau cái chết không phải
là sự di chuyển đến một nơi chốn khác hay thời
gian khác; nó
chỉ là sự thay đổi về chất sự chú tâm của chúng
ta. Bạn chỉ có thể nhìn thấy những gì
có rung động tương ứng với bạn. (Tiến
sĩ y học Deepak Chopra) - (Sự Sống Sau Cái Chết;
D. Chopra; dịch giả: Trần Quang Hưng).
*
Giác ngộ không
phải là
một công việc riêng tư chẳng
can dự gì đến khối lớn cộng đồng; điểm tựa của
nó được đặt ngay trong lòng vũ trụ. (…) Cái được
gọi là “thiện căn” chỉ có giá chừng nào nó làm
lợi ích cho tất cả thế gian. Nếu không thể phụng
sự cho toàn thể môi trường gồm những thân thuộc
mà mình đứng trong đó – nghĩa là, nếu
cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến
bờ cõi xa xôi nhất thì
“thiện đức”của y không phải là “thiện đức” thứ
thiệt, và chẳng có cái lối chứa nhóm nào như vậy mà
lại có thể làm
trỗi dậy ước vọng giác ngộ (tức Bồ-đề tâm).
(Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki) - (Thiền Luận
- quyển hạ, luận IV; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ
Sỹ).
* Nền
vật lí này bây giờ đã thấy rằng vũ
trụ là một mạng lưới chằng chịt vật chất và tâm
linh liên
quan mật thiết với nhau, mà mỗi phần tử chỉ được
định nghĩa trong mối tương quan với toàn thể. (Giáo
sư vật lí Fritjof Capra) – (Đạo Của Vật Lí; F.
Capra; dịch giả: Nguyễn Tường Bách).
Chùm
2:
* Bảo
rằng “Duy
tâm” là do bởi tâm, cũng là được sinh ra từ tâm;
khi thông hiểu được các tướng trạng đặc thù
trong tất cả những biến đổi có thể có được thì
chúng không gì khác hơn là chính cái Tâm. (Phần
Tổng kệ của kinh Lăng Già) – (Nghiên Cứu Kinh
Lăng Già; D.T.Suzuki; dịch giả: Thích Chơn
Thiện, Trần Tuấn Mẫn). (Tác phẩm này được thầy
Trần Tuấn Mẫn (dịch giả) sửa bản in. Đây là một
việc làm vô cùng quan trọng đối với những kinh
sách có giá trị cho sự tu học và ấn chứng. Ngày
nay có nhiều tác phẩm Phật học bị sai lệch nội
dung nghiêm trọng sau khi in ấn! Mong sao điều
này được quý vị tác giả và dịch giả quan tâm.
–TT LBB).
* Trường
ý thức là cơ sở của
mọi hiện tượng trong Tự nhiên, bởi vì khe
hở tồn
tại giữa mọi electron, mọi ý nghĩ, mọi khoảnh
khắc thời gian. Khe
hở là
điểm khống chế, sự
tĩnh lặng ở tâm của
sáng tạo, nơi vũ trụ liên kết mọi sự kiện. (…)
Chúng ta cần nhớ nguồn
gốc chung của
mình. Tinh thần con người suy thoái khi chúng ta
hạn chế mình trong một kiếp người và giam trong
một thể xác. (Tiến
sĩ y học Deepak Chopra) - (Sự Sống Sau Cái Chết;
D. Chopra; dịch giả: Trần Quang Hưng).
* Tôi
tuyệt đối tin rằng sự
sống vật thể trên trái đất đã được tạo ra bằng
cách hồn cô đặc dần. Mọi học lí cho
rằng, sự sống trên trái đất xuất hiện do những
phân tử phức tạp tự phát sinh và cô đọng thành
những cơ thể sống, không vững vàng, xét cả trên
quan niệm tôn giáo lẫn quan điểm vật lí học và
hoá học hiện đại. (Nhà
bác học-giáo sư tiến sĩ y học E-rơ-nơ
Mun-đa-sep) – (Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu; E.
Mun-đa-sep; dịch giả: Hoàng Giang).
* Sự
ô nhiễm tâm linh không phát xuất từ đâu khác cả
mà chính là ở trong mạt-na (ý),
căn gốc của tri thức và của ý chí. (Thiền
sư D.T.Suzuki) – (Nghiên Cứu Kinh Lăng Già;
D.T.Suzuki; dịch giả: Thích Chơn Thiện, Trần
Tuấn Mẫn).
*
Giác ngộ phải gồm cả ý chí lẫn tri thức. Đó là
một hành
vi trực giác phát sinh từ ý chí. Ý chí
muốn tự biết nó là gì, y như thực, ngoài tất cả
các điều kiện chi phối sự hiểu biết. (…) Khi nói
đến chứng đạo hoặc giác ngộ, tự nhiên ta dễ liên
tưởng đến khía cạnh nhận thức và quên
mất động lực phi thường của ý chí tác động ở bên
sau, mà cũng chính là động lực cấu tạo
nên cốt cách của một cá nhân. (Thiền
sư Daisetz Teitaro Suzuki) -
(Thiền Luận - quyển thượng, luận III;
D.T.Suzuki; dịch giả: Trúc Thiên).
*
Giác là vậy, một trạng thái tuyệt đối của tâm
dứt bặt hết phân biệt - vọng tưởng hoặc biến kế
chấp. Để thể nghiệm trạng thái kiến chiếu muôn
vật “trong một niệm” ấy phải có một khí lực dũng
mãnh. (…) Và vì lẽ có
“nhất niệm” mới có giác nên
cần nỗ lực vượt qua cái thế đối đãi ấy của ý
thức kinh nghiệm chấp dính vào cái nhiều thay vì
cái một của sự vật. (Thiền
sư Daisetz Teitaro Suzuki) -
(Thiền Luận - quyển thượng, luận III;
D.T.Suzuki; dịch giả: Trúc Thiên).
Chùm
3:
* Xin
đừng hỏi: “Làm cách nào để thấy?” Ngay lúc ngài
hỏi làm thế nào, có người sẽ sẵn sàng giúp ngài,
rồi ngài trở thành nô lệ của người đó. Nhưng nếu
ngài tự thấy rằng suy
nghĩ và thời gian (tâm lí) thực sự là gốc rễ của
sợ hãi, không cần phải đắn đo hay quyết
đoán ngài cũng vẫn hành động. Ví như gặp con bọ
cạp nguy hiểm, con rắn độc – khi nhìn thấy chúng
ngài sẽ hành động tức thì. (…) Vậy thì mỗi người
chúng ta có thể cảm thấy được trách
nhiệm mà
chúng ta đã tạo ra cái xã hội chúng ta đang sống
không? Cái xã hội quái gở, vô đạo đức ngoài
tưởng tượng! (…) Vậy có cần nên hết
sức tỉnh thức, nhận
biết được mỗi suy nghĩ? Chúng ta có thể
là vậy không? (…) Tư tưởng, suy nghĩ có thể nào
mang lại trật tự không, trong khi chính
cái tư tưởng bị giới hạn này là nguồn gốc của
hỗn loạn? (…) Có thể nào trí não chỉ
dùng đến suy nghĩ khi cần thôi? Những lúc cần
sống với suy nghĩ là khi lái xe, khi ăn, khi
viết thư, khi làm điều này điều nọ trong thực
tế. Mọi thứ này là hoạt động của cái suy nghĩ
giới hạn – nghĩa làkhi cần thì suy nghĩ
có thể hoạt động. Nhưng ngoài những
chuyện đó ra, sao
nó lại ba hoa suốt cả ngày vậy? (Thiền
sư Jiddu Krishnamurti) – (Lời Cuối Bình Yên; J.
Krishnamurti; biên dịch: Mộc Nhiên).
* Những
cấu trúc mà nhà khoa học quan sát được trong
thiên nhiên thực ra liên hệ rất chặt chẽ với cấu
trúc của tâm ý họ; với khái niệm, tư tưởng và hệ
giá trị của họ. Do đó, kết quả khoa học
mà họ thu được và sự ứng dụng kĩ thuật mà họ tìm
hiểu sẽ rất tuỳ thuộc vào khuôn khổ tâm thức của
họ. (…) Thế nên, nhà khoa học phải chịu trách
nhiệm về công trình nghiên cứu của mình, không
những chỉ về tri thức, mà cả về mặt đạo lí. (Giáo
sư vật lí Fritjof Capra) – (Đạo Của Vật Lí; F.
Capra; dịch giả: Nguyễn Tường Bách).
*
Pháp môn vô niệm thuộc về hàng thánh nhân, nhưng
nếu phàm phu tự tu tập theo đó, họ không còn là
phàm phu nữa. (…) Ai quán vô niệm, kẻ ấy tức thì
tăng trưởng phước đức nhiều như cát sông Hằng.
(…) Ai quán vô niệm, kẻ ấy ôm trọn vạn vật trong
lòng mình. (…) “Vô”
có nghĩa là vô nhị tướng, “niệm” là niệm Chân
như. (Thiền
sư Thần Hội) - (Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn Kinh);
D.T.Suzuki; dịch giả:Thuần Bạch).
* Tột
trước cùng sau trở về niệm
hiện tiền. (Kinh
Lăng Già Tâm Ấn; dịch giả: Thích Thanh Từ).
* Các
nhà khoa học cũng đang quay lại và hướng sự tập
trung vào việc tìm hiểu cách
thức suy nghĩ và trạng thái của chúng ta thực
sự ảnh hưởng đến lực từ trường bên trong và xung
quanh chúng ta. (Tiến
sĩ sinh học Karen Nesbitt Shanor) – (Trí Tuệ Nổi
Trội; K.N.Shanor; dịch giả: Vũ Thị Hồng Việt).
* Các
nghiên cứu tại trường Đại học Stanford đã chỉ ra
rằng thông
qua suy nghĩ, chúng ta có thể gây ảnh hưởng tới
huyết áp và nhịp tim của một người ở cách xa
chúng ta. Còn các nhà khoa học tại trường Đại
học Princeton đã chứng minh được quá trình trao
đổi thông tin giữa hai người ở cách xa nhau hàng
nghìn dặm. (Tiến
sĩ sinh học Karen Nesbitt Shanor) – (Trí Tuệ Nổi
Trội; K.N.Shanor; dịch giả: Vũ Thị Hồng Việt).
Chùm
4:
*
Khái niệm quan trọng nhất trong hệ thống các
thức là Tập khí. Tập khí là gì? Về mặt tâm lí,
như đã được nêu trước đây, tập
khí là kí ức, vì đấy là cái gì để lại
sau khi một hành động được thực hiện, thuộc tâm
lí hay vật lí, và được nó giữ lại, được chứa
đựng trong A-lại-da như một thứ năng
lực tiềm tàng sẵn
sàng được trở thành hành động. Cái kí ức hay tập
khí này, hay sự quen xông ướp, không
nhất thiết thuộc cá biệt, không những
chỉ giữ trong nó cái kí ức cá biệt mà còn giữ
tất cả những gì mà các chúng sinh hữu tình đã
kinh nghiệm. Khi kinh bảo rằng A-lại-da có tất
cả những gì đã diễn tiến từ thời vô thỉ được
chất chứa một cách hệ thống như một loại hạt
giống, thì điều này không trỏ vào những
kinh nghiệm đặc thù cá nhân mà trỏ vào những gì
tổng quát, vượt khỏi cái đặc thù, theo một cách
nào đó, tạo
thành cái nền mà
dựa vào đó mọi hoạt động tâm lí cá nhân được
phản ánh. Do đó, A-lại-da vốn là thanh tịnh, nó
là trú xứ của Như Lai tính, ở đó không
có sự ô nhiễm của cái tri thức và tình cảm đặc
thù hoá nào có thể đến được; sự thanh tịnh, về
mặt luận lí, có nghĩa là tính phổ quát, và các ô
nhiễm (lậu hoặc) hay tội lỗi có nghĩa là sự
cá biệt, từ đó những chấp trước và
các hình thức khác nhau được phát sinh. Tóm lại,
thế giới khởi sự từ tập khí và chính tập khí vì
vẫn có tính chất phổ quát trong A-lại-da nên
không có gì xấu, và khi chúng ta được gỡ khỏi
cái ảnh hưởng của sự phân biệt sai lầm thì toàn
bộ hệ thống thức được đặt thành chung quanh
A-lại-da, lấy lại A-lại-da làm trung tâm, sẽ
kinh nghiệm một sự đột biến (paràvritti) mà
thành sự nhận thức thực sự. Đây là điểm
chủ chốt trong giáo lí của Lăng-già.
Sự
đột biến này đánh dấu cái đỉnh điểm của tâm lí
học thực hành của Lăng-già, vì chính nhờ sự kiện
này mà có thể có được sự thể hội về tự chứng
Thánh trí cảnh giới, và sự
thể hội này là chủ đề trung tâm của bộ kinh.
(…). (Thiền
sư D.T. Suzuki) – (Nghiên Cứu Kinh Lăng Già;
D.T. Suzuki; dịch giả: Thích Chơn Thiện, Trần
Tuấn Mẫn).
*
Người cổ xưa cho rằng, vật chất sinh ra từ
khoảng không. Nhà vật lí thiên tài Nga
Ghên-na-đi Si-pốp, người đã lập được phương
trình (A. Anh-xtanh đã không lập được) mô tả vật
lí chân không, tức Tịnh vô tuyệt đối hoặc Tuyệt
đối, cũng cho như vậy. (…).
Tuyệt Đối đó không đơn thuần là tịnh vô; đó là Khoảng
Không có Cái gì đó. Trước mắt, khoa học
chưa biết Cái gì đó. Theo G. Si-pốp, nguyên tử
và phản nguyên tử phát sinh từ Tuyệt đối. Chúng
sinh ra, đụng độ nhau và huỷ diệt nhau. Nhưng có
một lần, cách đây nhiều tỉ năm, vào một thời
điểm các nguyên tử và phản nguyên tử sau khi tạo
thành trong không gian, đã tản đi. Vật chất phát
sinh từ Tuyệt đối là như vậy.
Các trường xoắn và phản xoắn (xoắn theo cách
khác) siêu tần số cùng phát sinh từ Tuyệt đối,
chúng cùng huỷ diệt lẫn nhau và hỗ trợ Tuyệt
đối. Nhưng cũng có thể xuất hiện thời điểm, khi
các trường xoắn huỷ diệt nhau tản đi. Thế giới
tế vi phát sinh từ Tuyệt đối là như vậy.
Theo giả thuyết của G. Sipốp: giữa
các trường xoắn của thế giới tế vi và ý thức có
mối liên hệ trực tiếp, bởi các trường xoắn là
những chất chứa đu-sa và đu-khơ.
(…) Dần dà trong quá trình tiến hoá trong thế
giới tế vi xuất hiện đu-khơ
– là khối năng lượng tâm thần kết đông dưới dạng
các trường xoắn có
thể bảo toàn vĩnh cửu trong mình một khối lượng
thông tin to lớn. Nhiều đu-khơ tạo thành giữa
chúng những mối liên hệ thông tin và tạo ra
Không gian thông tin toàn thể, tức Cõi kia (…).
(…) Mọi ngưòi đều biết rõ khái niệm karma
(nghiệp), tức
là các “vết tích” của các tiền kiếp để lại trong
đu-khơ. Giai đoạn trần thế ở thế giới
vật thể, đu-khơ có thể hoàn thiện mà cũng có thể
thoái hoá. (…). (Nhà
bác học-giáo sư tiến sĩ y học E-rơ-nơ
Mun-đa-sep) – (Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu; E.
Mun-đa-sep; dịch giả: Hoàng Giang).
* (…)
Đại thừa đứng vững trên hai chân, Trí tuệ và Từ
bi, cái ý niệm siêu việt và tình yêu trùm khắp
đối với tất cả các loại chúng sinh, hữu tình
cũng như vô tình. Trí
tuệ nhìn
thấy vào cái nhất tính của
các sự vật và từ
bi thể hội cái tự tính của chúng. Vị
Bồ-tát khóc cùng với các chúng sinh đau khổ và
đồng thời hiểu rằng có một vị không bao giờ
khóc, ở bên trên mọi đớn đau, sầu khổ và ô
nhiễm. (…) Và sự cân bằng này được nhìn thấy
trong Pranidhàna hay bổn
nguyện của
vị Bồ-tát. (Thiền
sư D.T. Suzuki) – (Nghiên Cứu Kinh Lăng Già;
D.T. Suzuki; dịch giả: Thích Chơn Thiện, Trần
Tuấn Mẫn).
*
Tùng Duyệt, toạ chủ chùa Đâu Suất, thường đặt ra
ba câu hỏi sau đây để khảo nghiệm sở kiến của
môn nhân đối với đạo lí của Thiền. 1) Ông bái
phỏng từ chỗ này sang chỗ khác, chỉ
cốt là để thấy tánh; vậy, ngay
lúc này, tánh của ông ở đâu? 2) Biết
được tự tánh mới
có thể thoát khỏi sinh tử; nhưng khi ông chết
rồi làm sao thoát? 3) Thoát khỏi sinh tử là biết
chỗ đến của
mình; vậy khi tứ đại tan rã, chúng ta đi về đâu?
“Tôi là gỉ?” “Tôi ở đâu?” “Tôi từ đâu đến?” “Tôi
đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề, được hỏi
khác nhau. Hiểu được một sẽ giải quyết tất cả
còn lại. “Tôi là gỉ?” là một nghi vấn dò
vào tự tánh của
thực tại, căn cơ của mọi sự vật chủ quan và
khách quan. (…)
Trên phương diện tâm lí, trả lời cho cái “ở
đâu?”, cho thấy thái độ tâm lí căn bản của ta
đối với thế giới khách quan một cách tổng quát,
và ở Thiền câu hỏi này thường khoác dưới hình
thức “ở đâu đến?”, nhờ đó thiền sư mong thấy
tăng chúng tìm
ra nơi trú ẩn tâm linh của họ nằm ở đâu.
Toàn bộ sự đào luyện của Thiền tông, có thể nói,
cốt ở sự đặt để này, cũng gọi là tìm
tòi hay đào xới. (…) “Từ đâu?” và “Đến
đâu?”, những ai có thể trả lời đích đáng, những
vị ấy quả là đã tỏ ngộ.
(…)
Đạo Phật, là một lối luyện tập tâm linh thực
tiễn, dù có những lời nhằm phô diễn thẳng về
kinh nghiệm, không
cho phép có sự can thiệp của lối giải thích trí
năng hay siêu hình nào ở đây. (Thiền
sư Daisetz Teitaro Suzuki) - (Thiền Luận - quyển
hạ, luận I; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).
* Tất
cả tâm ý thức đều từng phần, cục bộ, tù hãm,
trong khi chú tâm toàn vẹn là bao trùm ý thức
với những giới hạn của nó; do đó chú tâm có khả
năng xoá bỏ biên cương và giới hạn. (…) Thấy
biết cái giả như giả là chú tâm, nhưng cái giả
sẽ không được thấy là giả khi còn có ý kiến,
phán đoán, lượng giá, trói buộc… Mọi thứ này là
hậu quả của sự không chú tâm. Chú
tâm toàn vẹn là quán chiếu vào mọi cơ cấu của sự
không chú tâm. Tâm có chú tâm là tâm
rỗng rang. (…) Chỉ có chú tâm tỉnh giác với
một trung tâm chú tâm, nơi đó cội gốc
của tư tưởng biến mất, không bạo lực, thật tự
nhiên, thật dễ dàng. (Thiền
sư J. Krishnamurti) – (Bút Hoa; J. Krishnamurti;
dịch giả: Ẩn Hạc).
*
Thiền, cốt yếu nhất là nghệ thuật kiến chiếu vào
thể tánh của chúng ta; nó chỉ con đường từ triền
phược đến giải thoát. (…) Bấy giờ, ta nhận ra ý
nghĩa cuộc sống, ta biết rằng đó không
phải là một nỗ lực mù quáng, mà cũng không phải
là trường thao diễn những bạo lực vô tri; nhưng
dầu không thấu hiểu được những
ý nghĩa tối hậu của kiếp người, vẫn
có cái gì đó khiến ta vui không cùng để mà sống,
và qua mọi cuộc thăng trầm ta vẫn thảnh thơi mà
an thân lập mệnh, không thắc mắc, không hoài
nghi, không bi quan yếm thế. (Thiền
sư Daisetz Teitaro Suzuki) -
(Thiền Luận - quyển thượng, luận I; D.T.Suzuki;
dịch giả: Trúc Thiên).
Chùm
5:
* Chỗ
không có niệm
tưởng dấy khởi, rỗng thênh và vô sở trụ, đó là
Định. Khi không niệm tưởng, rỗng thênh và vô sở
trụ được
nhận biết thì
đó là Tuệ. Ở đâu việc (vi diệu) này xuất hiện
thì ta bảo rằng Định này tự thể hiện và chính là
Thể của Bát-nhã, không khác với Tuệ mà chính là
Tuệ; lại nữa Tuệ này, tự thể hiện và chính là
dụng của Định, không khác với Định mà chính là
Định. (…) Ta nói về Định, nhưng đối với Thể
của nó thì không có gì phải sở đắc. Khi
thấy được cái
Thể bất khả đắc này, luôn luôn tịch lặng tròn
đầy bất biến, nhưng vẫn diệu dụng bất tư nghì,
thì đó là Tuệ. Chỗ này Định Tuệ đồng đẳng. (Thiền
sư Thần Hội) -
(Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn Kinh); D.T.Suzuki; Thuần
Bạch biên dịch).
* Ánh
sáng chiếu soi đó
là Tuệ, chẳng phải động và bất biến là Định.
Bồ-tát dùng pháp Định Tuệ đồng thể đó được Vô
thượng giác. Cho nên nói “Định Tuệ đồng thể tức
là giải thoát”. Nói tự tại khỏi nhiễm ô có nghĩa
là không còn phàm tình chứ không phải hết thánh
tình. (Thiền
sư Huệ Hải) -
(Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn Kinh); D.T.Suzuki; Thuần
Bạch biên dịch).
* Ngộ
là một hình thái của tri giác, một thứ tri
giác nội tại, phát hiện trong phần sâu
thẳm nhất của ý thức. Đó là ý nghĩa của đặc tính tự
tri; tức là sự thực tối hậu. Cho nên
người ta thường bảo rằng Thiền giống như uống
nước, nóng hay lạnh tự người uống biết lấy. (Thiền
sư Daisetz Teitaro Suzuki) -
(Thiền Luận - quyển trung, luận I; D.T.Suzuki;
dịch giả: Tuệ Sỹ).
* Đừng
nghĩ đến
thiện, đừng
nghĩ đến
ác, mà ngay bây giờ hãy
nhìn xem bản
lai diện mục của ngươi, trước
khi nhà
ngươi sinh ra là gì? (Lục
tổ Huệ Năng) -
(Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn Kinh); D.T.Suzuki; Thuần
Bạch biên dịch).
* Tự
tri là thấy mình, nhìn
thấy tâm trí mình từ
giây phút này đến giây phút khác trong lăng
kính của tương giao tương hệ của mình đối với
tài sản, đối với những sự việc, đối với con
người, đối với những ý tưởng… (…) Đây là việc
chính yếu: khi mà tôi chưa hiểu được mình, tôi
không thể có được căn bản để suy tư, và tất cả
sự tìm kiếm của tôi chỉ là vô vọng hão huyền.
(…) Chính
sự kiện ý thức trực tiếp về hiện thể (cái đang
là) là chân lí rồi. (…) Đừng phân tích
tâm thức để tâm trí tĩnh lặng. (Thiền
sư Jiddu Krishnamurti) – (Tự Do Đầu Tiên Và Cuối
Cùng; J.Krishnamurti; dịch giả: Phạm Công
Thiện).
Chùm
6:
* Từ
trước cho đến thời Lục Tổ, khái niệm về Phật
tánh hiện hữu nơi tất cả chúng sinh, tự thể hoàn
toàn thanh tịnh và bất nhiễm, rất thịnh hành. Bổn
phận sự của
người tu là làm hiển lộ Tự tánh, tức Phật tánh
nơi mình, vốn xưa nay thanh tịnh. (Thiền
sư Daisetz Teitaro Suzuki) -
(Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn Kinh); D.T.Suzuki; dịch
giả:Thuần Bạch).
*
“Nguyên” (“nguồn”) là chơn tánh bản giác của tất
cả chúng sinh, cũng gọi là Phật tánh, cũng gọi
là tâm địa. Ngộ đó gọi là huệ, tu đó gọi là
định; định huệ chung gọi là thiền-na. Tánh này
là cội nguồn của thiền cho nên gọi là thiền
nguyên (nguồn thiền), cũng gọi là “lí hạnh
thiền-na”.
(…)
Chơn tánh này không riêng nguồn của thiền môn,
cũng là nguồn của muôn pháp, cho nên gọi là pháp
tánh; cũng
là nguồn mê ngộ của chúng sinh, cho nên
gọi là Như Lai tàng, tàng thức; cũng là nguồn
muôn đức của chư Phật, nên gọi là Phật tánh;
cũng là nguồn muôn hạnh của Bồ-tát, nên gọi là
tâm địa. (Thiền
sư Tông Mật) – (Nguồn Thiền; Tông Mật; dịch giả:
Thích Thanh Từ).
* Lục
Tổ đã giảng rõ cho chúng ta hiểu về Tánh theo
cái nhìn của ngài. Tánh là sinh lực ngự trị toàn
thể sinh mệnh chúng ta, là nguyên lí của sự sống
vật chất lẫn tinh thần. Không chỉ có thân mà cả
tâm, trong ý nghĩa cao tột nhất, đang sống vì sự
có mặt của Tánh. (…).
Tự
tánh nói một cách khác là tự tri, không phải chỉ
là hiện hữu suông mà còn biết. Chúng ta có thể
nói như thế vì tự
tri tức đang là, tri tức hữu và hữu tức tri.
Đây là ý nghĩa câu nói của Lục Tổ: “Nơi bản tánh
riêng có trí Bát-nhã và vì thế có tự tri (tự
dụng trí huệ). Bản tánh thường quán chiếu và
không dùng ngôn ngữ để diễn tả được”. (Thiền
sư Daisetz Teitaro Suzuki) -
(Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn Kinh); D.T.Suzuki; dịch
giả:Thuần Bạch).
* Chỉ
có một câu mà thiền gia nên ra sức công phu và
tìm thấy giải đáp chung quyết là: “Bản lai diện
mục của ta là gì?”(Thiền sư Đại Ứng). “Khi
các ngài được dạy cho đặt nghi tình vào cái
nghĩa của niệm Phật, hãy cứ tự nhiên mà chú tâm
ngay trên chỗ “ai”
niệm Phật”. (Thiền
sư Bản Thiện) - (Thiền Luận - quyển trung, luận
I; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).
* Những
điều kiện tất yếu cho việc làm
trỗi dậy ước vọng giác ngộ có
thể được tóm tắt như vầy: 1. hành vi đạo đức, 2.
thân cận chư Phật và các thiện tri thức, và 3.
tâm thanh tịnh, chân
thật và từ bi. Khi làm tròn ba điều
kiện này, Bồ-đề tâm (Bodhicitta) được coi là đã
ngóc đầu dậy và sẵn sàng để tăng tiến.
(…)
(Theo kinh Hoa Nghiêm) “Bồ-đề tâm như đại dương
vì chứa tất cả các hạt ngọc công đức. Bồ-đề tâm
như núi Tu-di (Sumeru) bình đẳng đứng cao trên
tất cả mọi vật. Bồ-đề tâm như núi Thiết-vi
(Cakravada) vì bảo
trì hết thảy thế gian. Bồ-đề tâm như
núi Tuyết (Himàlaya) vì sản xuất tất cả các cây
thuốc trí tuệ. Bồ-đề tâm như núi Hương
(Gandhamàdana) vì xuất sinh tất cả các thứ hương
công đức. Bồ-đề tâm như hư không vì trải rộng vô
biên phước đức”. (Thiền
sư Daisetz Teitaro Suzuki) -
(Thiền Luận - quyển hạ, luận IV; D.T.Suzuki;
dịch giả: Tuệ Sỹ).
Chùm
7:
* Nếu
giác ngộ đã làm cho toàn thể vũ trụ rung chuyển
sáu cách khác nhau như kinh chép, thì vô minh
khi chưa bị hàng phục ắt
vẫn có đủ thần lực ấy, dầu rằng vì bản
chất và hiệu lực, thần lực ấy diễn ngược lại hẳn
với giác ngộ. (Thiền
sư Daisetz Teitaro Suzuki)- (Thiền Luận - quyển
thượng, luận III; D.T.Suzuki; dịch giả: Trúc
Thiên).
* Nếu
ngài thấy rằng ý
thức của mình được
chia sẻ bởi
tất cả con người khác sống trên trái đất này,
lúc đó toàn bộ cách sống của ngài sẽ đổi khác.
(…) Muốn chuyển hoá thế giới, chuyển hoá sự khốn
khổ, chiến tranh, nạn thất nghiệp, nạn đói, sự
phân chia giai cấp và tất cả sự hỗn loạn khắp
nơi thì chúng ta phải chuyển hoá chính bản thân
mình.(Thiền sư Jiddu Krishnamurti) – (Tự Do
Đầu Tiên Và Cuối Cùng; J.Krishnamurti; dịch giả:
Phạm Công Thiện).
*
Nhìn vào bên trong, chúng ta biết có cái tâm
chân thật ở trong. Tâm này thấy sự rong ruổi của
ý thức, thấy
được vọng niệm khi dấy khi lặng. Nếu
không có tâm ấy, chúng ta làm sao biết được khi
có vọng khi không vọng, lúc có ý thức lúc không
ý thức. Cái biết được vọng, quyết định cái đó
không phải vọng. Vọng thì khi sinh khi diệt, cái
thấy rõ sự sinh diệt của vọng quả là không phải
sinh diệt. Vọng dấy lên do vin theo bóng dáng
trần cảnh nên có tướng mạo, thuộc về nhân duyên. Cái
biết vọng, chưa từng dấy lên, chưa
từng theo trần cảnh, nên không liên hệ
đến nhân duyên. (…) Nhận ra cái đó là thấy tâm
chân thật ở trong. (Thiền
sư Thích Thanh Từ) – (Thiền Tông VN Cuối Thế Kỉ
20; Thích Thanh Từ).
* Nếu
được bạn lành vạch bày liền đốn ngộ cái “biết”
không - lặng. Cái
“biết” không có niệm, không hình tướng
thì đâu có gì là ngã tướng nhân tướng. (Thiền
sư Tông Mật) ) – (Nguồn Thiền; Tông Mật; dịch
giả: Thích Thanh Từ).
* Mục
tiêu của việc tu thiền là nhận ra tự tánh (tức
Phật tánh) và giải thoát khỏi mê lầm phiền não.
Làm thế nào để nhận ra được? Có thể được, vì tự
tánh là tự tri. (…) Bảo rằng quá trình
giác ngộ là đốn nghĩa là có một cú nhảy vọt (…).
Cú nhảy vọt về mặt luận lí là tiến
trình lí luận thông thường khựng lại một cách
đột ngột (…).
Tiến trình này gián đoạn đột ngột, và đồng thời
bất khả tư nghì; đó là kiến tánh. (…) Vì là vô
tâm vô niệm nên cái thấy mới thực là thấy. (…)
Lí vô ngã không đúc kết từ suy luận duy lí mà là
một sự kiện thực tế. (…) Các lí luận gia cần nhớ
rằng tôn giáo là sự kiện thực nghiệm (…). (Thiền
sư Daisetz Teitaro Suzuki) -
(Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn Kinh); D.T.Suzuki; dịch
giả: Thuần Bạch).
Chùm
8:
*
Ngài Pháp Hải bạch rằng: “Hoà Thượng để lại giáo
pháp gì khiến cho những người mê đời sau được
thấy Phật tánh?” Tổ bảo: “Các ông lắng nghe,
những người mê đời sau nếu biết chúng sinh tức
là Phật tánh, nếu chẳng biết chúng sinh muôn
kiếp tìm Phật cũng khó gặp. Nay tôi dạy các ông: biết
tự tâm chúng sinh, thấy tự tâm Phật tánh.
Muốn cầu thấy Phật, chỉ
biết chúng sinh; chỉ vì chúng sinh mê
Phật, chẳng phải Phật mê chúng sinh. Tự tánh nếu
ngộ chúng sinh là Phật, tự tánh nếu mê Phật là
chúng sinh; tự tánh bình đẳng chúng sinh là
Phật, tự tánh tà hiểm Phật là chúng sinh. (…)”. (Pháp
Bảo Đàn Kinh; dịch giả: Thích Thanh Từ).
*
Toàn bộ giáo lí Phật giáo, hay cả toàn thể đạo
học Đông phương, nói về tri kiến tuyệt đối, tri
kiến chỉ đạt được trong thế giới vô niệm,
trong đó sự thống nhất toàn thể mọi nhị nguyên
đối lập là sự chứng thực sinh động. (Giáo
sư vật lí Fritjof Capra) – (Đạo Của Vật Lí; F.
Capra; dịch giả: Nguyễn Tường Bách).
* Bản
ngã - một ảo tưởng - là kết quả của bộ
não bị quy định, bị chương trình hoá.(Giáo
sư tiến sĩ vật lí David Bohm).
*
(Thầy Đa-ram nói) Năng lượng linh hồn là năng
lượng ở ngoài electron và ngoài proton. Nhưng
tâm năng mạnh mẽ vô cùng, nó có khả năng tác
động lên lực hấp dẫn. Năng lượng của nhiều tâm
có một sức mạnh lớn lao. Có tâm năng tích cực và
tâm năng tiêu cực, chúng gắn liền với nhau.(…) Tâm
năng tiêu cực (xấu
ác) có
thể thu hút các đối tượng phá phách của vũ trụ,
tác động lên thiên nhiên. Bởi vậy, cùng
với xung đột và chiến tranh, khá thường xuyên
xảy ra động đất, rơi thiên thạch… (Nhà
bác học-giáo sư tiến sĩ y học E-rơ-nơ
Mun-đa-sep) – (Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu; E.
Mun-đa-sep; dịch giả: Hoàng Giang).
* Gọi
là Thượng
Đế hay chân lí đều như nhau; chân lí là
giải thoát tâm trí khỏi mọi gánh nặng của trí
nhớ (tâm lí). (Thiền
sư J. Krishnamurti).
*
Nhược ngộ tịch
vi lạc / Thử sinh nhàn hữu dư. (Nếu ngộ tịch là
lạc / Đời này nhàn có dư). (Thiền
thi sĩ Vương Duy).
Chùm
9:
* Này
thiện tri thức, nếu trong các ông hàng hữu học,
mỗi lần niệm khởi trong tâm, hãy hồi quang phản
chiếu (tận nguồn tâm). Khi niệm
diệt trong
tâm, sự phản quán tâm cũng tự
diệt, đó là vô niệm. Vô niệm hoàn toàn
thoát ngoài các duyên ngoại cảnh, bởi vì nếu còn
có cảnh duyên nào thì không thể là vô niệm được.
(…) Nếu khởi chánh chân Bát-nhã quán chiếu thì
trong khoảng một sát-na vọng niệm đều diệt. Nếu
biết tự tánh, một phen ngộ tức đến quả vị Phật.
(…). Nếu để cho tâm chẳng nghĩ gì hết, đó là diệt
niệm, tức bị pháp trói buộc, gọi là
thấy một bên. (Lục
tổ Huệ Năng) -
(Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn Kinh); D.T.Suzuki; dịch
giả: Thuần Bạch).
* Dĩ
nhiên chúng ta phải sử dụng các ngôn từ khi một
điều gì đó được truyền đạt từ người này sang
người khác, nhưng các ngôn từ chỉ là sự nêu trỏ
suông chứ không phải là chính sự thực. Như kinh
bảo, chúng ta phải dùng đến ngọn đèn ngôn từ để
đi vào trong cái chân lí nội tại của kinh nghiệm vượt
khỏi ngôn từ và tư tưởng. Nhưng quả thực là hoàn
toàn khờ dại khi tưởng ra rằng ngọn
đèn ấy
là mọi sự. (Thiền
sư D.T.Suzuki) – (Nghiên Cứu Kinh Lăng Già;
D.T.Suzuki; dịch giả: Thích Chơn Thiện, Trần
Tuấn Mẫn).
*
Theo Lục Tổ, Bát-nhã là tên đặt cho Tự tánh hoặc
Vô niệm, khi Tự tánh tự nhận biết mình,
hoặc đúng hơn là hành
vi tự nhận biết chính mình. (Thiền
sư Daisetz Teitaro Suzuki) -
(Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn Kinh); D.T.Suzuki; dịch
giả: Thuần Bạch).
*
Thoại (lời nói) từ tâm khởi, tâm là đầu (ở
trước) của thoại. Niệm từ tâm khởi, tâm là đầu
của niệm. Vạn duyên đều từ tâm khởi, tâm là đầu
của vạn duyên. Sự thật, “thoại đầu” tức là “niệm
đầu”; trước
niệm chính là tâm. Nói thẳng, trước khi
một niệm chưa sinh là thoại đầu. Do đây, chúng
ta biết khán thoại đầu tức là quán tâm. Khán
“trước khi cha mẹ chưa sinh, mặt thật xưa nay là
gì?” là quán tâm. (Thiền
sư Hư Vân) – (Thiền Đốn Ngộ; dịch giả: Thích
Thanh Từ).
*
Người trí xem năm
uẩn là những cấu trúc của tưởng. (…) Ba
cõi không gì khác hơn là sự phân biệt. (…) Khi
một sự chuyển hoá (chuyển y)
xảy ra thì có một trạng
thái vô tưởng vốn
là cảnh giới của người trí. (…) Khi người ta
nhận biết rằng không có gì ngoài những thứ được
thấy từ chính cái Tâm thì sự phân biệt về hữu và
phi hữu đứt đoạn.(Kinh Lăng Già; bản tiếng
Anh của D.T.Suzuki; dịch giả: Thích Chơn Thiện,
Trần Tuấn Mẫn).
* Tà
đến phiền não sanh /
Chánh đến phiền não dứt;
Tà
chánh đều không dùng / Thanh tịnh mới hoàn toàn.
(Pháp Bảo Đàn Kinh; dịch giả: Thích Thanh Từ).
Chùm
10:
*
Mười phương thế giới thu vào một điểm hiện tiền;
quá khứ, hiện tại, vị lai tụ trong một niệm
đương thời. Dù ở giữa hàng chư thiên cũng không
có niềm vui nào so được với đây; ở loài người
lại càng hiếm lắm. Sự tiến bộ như thế trong đời
sống tâm linh có
thể thâu đạt được chỉ trong vài bữa,
nếu hành giả dốc lòng tu tập. (Thiền
sư Bạch Ẩn) - (Thiền Luận - quyển trung;
D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).
*
Người học kinh, xem giáo lí, mỗi câu mỗi câu đều
phải uyển chuyển xoay
về nơi mìnhđể làm sáng tỏ tánh giác. (Thiền
sư Bá Trượng) - (Trung Hoa Chư Thiền Đức Hành
Trạng; dịch giả: Thích Thanh Từ).
* Tối
kị nhằm trong ngôn cú tạo kế sống. Vì sao? Vì
bánh in đâu có nước. Người ta phần nhiều rơi vào
ý thức. Cần phải nhắm về trước
khi ngữ cú chưa sinh để
hội lấy, mới được đại dụng hiện tiền tự nhiên
thấy được. (Bích
Nham Lục; dịch giả: Thích Thanh Từ).
*
Không (trong Bát-nhã) là thành quả của trực giác
tâm linh, chứ
không phải là hậu
quả của suy luận. (Thiền
sư D.T.Suzuki) – (Thiền & Bát-Nhã; D.T.Suzuki;
dịch giả: Tuệ Sỹ).
* Khi
đức Phật dạy về Khổ thánh đế, Ngài nói đến năm
uẩn; Ngài muốn cho chúng ta biết và thấy năm
uẩn. Thế giới loài người của chúng ta là sự hiện
hữu của năm uẩn, và
trừ phi chúng ta biết và thấy được năm uẩn này,
bằng không chúng ta không thể hiểu rõ lời dạy
của đức Phật. (…) Khi hành giả phát
triển được định tâm mạnh mẽ, hành giả sẽ thấy
rằng đối tượng được phản chiếu trong ý môn như
trong một tấm gương. (Thiền
sư Pa-auk Sayadaw) – (Biết Và Thấy; P. Sayadaw;
dịch giả: Pháp Thông).
* Được
gia trợ bởi
năng lực của chư Phật, chư Bồ-tát Ma-ha-tát đang
ở cấp độ thứ nhất của mình (sơ địa)
sẽ đạt đến Bồ-tát Tam-ma-địa gọi là Ánh
sáng đại thừa (phát
quang địa), thuộc về chư Bồ-tát Ma-ha-tát. (Kinh
Lăng Già; bản tiếng Anh của D.T.Suzuki; dịch
giả: Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn).
---
(*):
(Xin tạm dùng từ “thiền ngôn”).
----------
8)
THUYẾT LUÂN HỒI
(HT.
Thích Thanh Từ - Phapbao.org) - (Lược
trích)
Tất
cả chúng ta hiện giờ có mặt ở đây không phải chỉ
một lần, mà là vô số lần rồi. Con
người bỏ thân này chưa phải là hết, mà còn lang
thang không biết đến bao giờ. Vì vậy nhà Phật
thường dùng từ “lang thang trong kiếp luân hồi”,
cứ đi mãi không biết dừng nơi đâu? Đức Phật thấy
được những nẻo đường của chúng sanh đến và đi
nên Ngài mới nói “Thuyết luân hồi”.
Luân
hồi là gì? Luân là bánh xe, hồi là lăn tròn.
Luân hồi đi đâu? Không ngoài ba đường ác và ba
đường lành, cứ lên xuống quay tròn như vậy hoài,
gọi là luân hồi. Nếu người làm điều tốt khi chết
sẽ đi các đường trên. Hưởng hết phước rồi thì
tuột xuống trở lại, còn kẻ làm xấu thì đọa vào
các đường dưới, đền trả hết nghiệp mới được trồi
lên. Lên xuống, lên xuống không ra khỏi vòng lục
đạo nên gọi là bánh xe luân hồi. Đó là nói luân
hồi trong các đường.
(…..)
Nghiệp là một luật rất công bằng cho tất cả mọi
loài, mình tạo thì mình hưởng. Làm phước được
phước, làm tội chịu tội. Nếu làm trọn mười điều
ác thì đi thẳng xuống địa ngục, không nghi ngờ.
Khá khá hơn không tới mười điều, nhưng nặng về
tham thì sanh vào loài quỷ đói. Ngạ quỷ sống
lang thang trong cõi thế gian, tuổi thọ rất lâu
phải chịu đói khát ghê lắm, nên kiếp ngạ quỷ
cũng hết sức khổ. Kế đến súc sanh, trong mười
điều ác làm chừng năm điều là đủ làm súc sanh
rồi. Súc sanh nặng về si nên không biết phân
biệt gì hết, không có tư cách như con người.
(…..)
Người
hiểu được thuyết luân hồi của Phật dạy thì cuộc
sống nội tâm vững vàng, nghèo không trách, giàu
không tự cao. Bởi biết bây giờ ta hưởng mà không
làm tốt nữa thì mai kia tuột xuống sẽ khổ. Hoặc
hiện giờ mình bị những đày đọa thì vui vẻ chấp
nhận, sửa lại đừng để tuột xuống nữa mà phải
nâng lên. Như vậy là tu. Biết rõ lý luân hồi tự
nhiên ta tạo cho mình con đường đi lên, không có
tâm oán hờn thù ghét ai hết.
Thế
gian thường có bệnh, mình nghèo mà ai giàu thì
thấy ghét người ta. Mình học dở thấy người học
giỏi thì ganh tỵ. Đó là tật xấu, tự mình chuốc
nghiệp mà thôi. Trong kinh Phật nói, từ khi phát
tâm tu cho tới thành Phật, trải qua ba vô số
kiếp làm tất cả các việc công đức mới thành tựu
đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Như
vậy sự tích lũy rõ ràng không mất, tích lũy tốt
thì quả nối tiếp tốt, tích lũy xấu thì quả nối
tiếp xấu.
Người
thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không
có phước nên sanh mình ra khổ. Hoặc cha mẹ không
có tài nên mình bây giờ phải thua sút người ta.
Mà không biết chính mình thọ nhận quả báo đời
trước đã tạo nên mới sanh vào gia đình tương ưng
như thế.Cha mẹ chỉ là phần phụ thôi, gốc
là bản thân mình. Như
vậy thuyết luân hồi nói lên lẽ thực của kiếp
người. Đức Phật đã thấy, đã nhớ rõ ràng nên nói
ra cho chúng ta biết, chớ không phải do Ngài tự
tưởng tượng. Ngày nay mình nghe hơi khó tin. Bởi
vì chúng ta nhìn nông cạn quá nên không tin
được.
(…..)
Đi
sâu vào tâm lý mỗi người, chúng ta sẽ thấy mình
đã từng quen thuộc, ưa thích với những việc làm
của thuở quá khứ. Ví dụ như bản thân tôi, tại
sao lại thích tu? Người đời lớn lên lo chuyện
làm ăn hoặc gì gì đó, tại sao mình không thích
những chuyện ấy mà lại thích đi tu? Như vậy là
từ đời quá khứ ta đã tích lũy hạt giống đó rồi,
nên bây giờ có mặt đây luôn nhớ việc ấy. Rõ ràng
chúng ta không quên hết nhân quá khứ, nhân nào
chứa sâu đậm sẽ trở thành sở thích, việc làm của
mình trong đời này.
(…..)
Có
nhiều cha mẹ rất hiền nhưng con không hiền. Hoặc
ngược lại cha mẹ dữ mà con lại hiền. Những sự
khác biệt đó, nhà Phật gọi là nghiệp tích lũy
của quá khứ, chúng ta mang theo khi thọ sanh.
Những gì mình đã chứa chấp đời trước, bây giờ nó
hiện ra rõ ràng. Như hai anh em ruột, thể xác
giống chút chút mà tâm hồn không giống nhau. Như
vậy mới thấy mỗi người sanh ra mang một nghiệp
khác nhau, từ đó có những sai biệt khác nhau.
Thế
thì muốn trên đường luân hồi mình đi đường tốt,
không đi đường xấu phải làm sao? Thấy người đáng
ghét ta nên xử sự thế nào? Nên nghĩ rằng họ có
làm gì hại mình mà ghét. Ghét người như vậy là
ta đã có ý nghĩ xấu rồi. Nếu tiếp tục nuôi dưỡng
ý nghĩ này, sanh chuyện nói này nói kia với
người ta là cái cớ để tạo thêm nghiệp. Nếu mọi
người đều biết tu như vậy thì gia đình, xã hội
đẹp biết bao nhiêu.
Muốn
biết có luân hồi hay không, chúng ta cứ nghiệm
trong tâm niệm của mình sẽ rõ. Cha mẹ sanh thân
được mà không thể sanh tâm niệm của mình. Có tâm
niệm rất lành, có tâm niệm rất dữ. Như vậy tâm
niệm đó từ đâu ra? Chính do sự tích lũy của đời
trước, không nghi ngờ gì hết. Tích lũy tức là
những gì đời trước mình đã từng làm từng huân
tập. Đời này trở lại những thứ tích lũy đó không
mất. Trong kiếp luân hồi chúng ta theo nghiệp
mình đã tích lũy, chất chứa mà hiện ra thành tâm
hồn cá biệt của mỗi người.
Nên
nói đến luân hồi chúng ta đừng thèm suy gẫm gì
hết, cứ nhìn lại nội tâm mình thì biết ngay. Tại
sao người đó chưa quen thuộc gì hết mà mình thấy
dễ thương, hoặc kẻ kia cũng chẳng quen thuộc gì
hết mà mình thấy phát ghét. Đâu có trả lời được. Tại
vì chúng ta không nhớ nổi, nên nói không biết
tại sao kỳ vậy. Thật ra do nghiệp tích lũy của
quá khứ chiêu cảm nên.
Trên
đời này ai không có những người thân, những kẻ
thù. Có thân, có thù gặp lại nhau là khổ. Người
thân thì mình thương, người thù thì mình ghét.
Nhiều người nói tại sao anh chị có duyên quá,
xin cái gì cũng được. Còn tôi vô duyên xin cái
gì cũng không ai cho. Chẳng qua hồi trước mình
hất hủi thiên hạ quá, bây giờ tới phiên người ta
hất hủi lại mình. Bình đẳng thôi.
Như
vậy mình tạo nghiệp lành, nghiệp dữ không đợi
đời sau mới trả quả mà ngay hiện tại cũng ứng
hiện quả báo phần nào. Người Phật tử cần phải
nắm vững thuyết luân hồi để chọn con đường lành
mà đi, không khéo rơi vào các đường dữ, chịu khổ
nhiều kiếp, không biết bao giờ mới ra khỏi. Lẽ
thực này, chúng ta không thể không biết.
----------
9) THAM KHẢO THÊM VỀ VẤN ĐỀ TÂM LINH
Hành
Trình Về Phương Đông
(Life
and Teaching of the Masters of the Far East)
Tác giả: Dr. Baird T.Spalding
Dịch giả: Nguyên Phong
Chương 9
Cõi
Vô Hình
Hamoud là một pháp sư có kiến thức rất rộng về
cõi vô hình. Khác với những đạo sĩ phái đoàn đã
gặp, ông này không phải người Ấn mà là một người
Ai Cập. Ông ta sống một mình trong căn nhà nhỏ,
xây dựa vào vách núi. Hamoud không hề tiếp
khách, nhưng trước sự giới thiệu của bác sĩ
Kavir, ông bằng lòng tiếp phái đoàn trong một
thời gian ngắn. Vị pháp sư có khuôn mặt gầy gò,
khắc khổ và một thân hình mảnh khảnh. Ông ta
khoác áo choàng rộng và quấn khăn theo kiểu Ai
Cập.
Giáo
sư Evans-Wentz vào đề:
-
Chúng tôi được biết ông chuyên nghiên cứu các
hiện tượng huyền bí…
Pháp
sư thản nhiên:
-
Đúng thế, tôi
chuyên nghiên cứu về cõi vô hình.
- Như
thế ông tin rằng có ma…
Vị
pháp sư nói bằng một giọng chắc chắn, quả quyết:
- Đó
là một sự thật, không những ma quỷ hiện hữu mà
chúng còn là đối tượng nghiên cứu của tôi.
-
Bằng cớ nào ông tin rằng ma quỷ có thật?
-
Khắp nơi trên thế giới đều có các giai thoại về
ma, vì con người thường sợ hãi cái gì mà họ không
thể nhận thức bằng các giác quan thông thường nên
họ đã phủ nhận nó. Sự phủ nhận này mang đến niềm
sợ hãi. Từ đó họ thêu dệt các giai thoại rùng
rợn, ly kỳ, không đúng sự thật. Nếu chúng ta
chấp nhận ma quỷ hiện hữu như một con voi hay
con ngựa thì có lẽ ta sẽ không còn sợ hãi. Các
ông đòi hỏi một chứng minh cụ thể chăng?
- Dĩ
nhiên, chúng tôi cần một bằng chứng hiển nhiên …
-
Được lắm, các ông hãy nhìn đây.
Vị
pháp sư mở ngăn kéo lấy ra một cặp que đan áo,
một bó len và mang ra góc phòng để xuống đất.
Ông ta thong thả:
-
Chúng ta tiếp tục nói chuyện, rồi các ông sẽ
thấy.
Mọi
người ngơ ngác, không hiểu ông muốn nói gì, giáo
sư Mortimer nóng nảy:
- Nếu
ông nghiên cứu về cõi vô hình, xin ông giải
thích về quan niệm thiên đàng, địa ngục cũng như
đời sống sau khi chết ra sao?
Vị
pháp sư nghiêm giọng:
- Đó
là một quan niệm không đúng; sự
chết chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp chứ không
phải là hết. Vũ
trụ có rất nhiều cõi giới, chứ không phải chỉ có
một cõi này.
Khi
chết ta bước qua cõi trung giới và cõi
này gồm có bảy cảnh giới khác nhau. Mỗi
cảnh được cấu tạo bằng những nguyên tử rất thanh
mà ta gọi là “dĩ thái”. Tùy theo sự rung động
khác nhau mà mỗi cảnh giới một khác. Tùy theo
vía con người có sự rung động thanh cao hay chậm
đặc, mà mỗi người thích hợp với một cảnh giới,
đây là hiện
tượng “đồng thanh tương ứng” mà thôi.
Khi vừa chết, thể chất cấu tạo cái vía được sắp
xếp lại, lớp thanh nhẹ nằm trong và lớp nặng
trọc bọc phía ngoài, điều này cũng giống như một
người mặc nhiều áo khác nhau vào mùa lạnh, áo
lót mặc ở trong, áo choàng dầy khoác ngoài. Vì
lớp vỏ bọc bên ngoài cấu tạo bằng nguyên tử rung
động chậm và nặng nề, nó thích hợp với các cảnh
giới tương ứng ở cõi âm, và con người sẽ đến với
cảnh giới này. Sau khi ở đây một thời gian, lớp
vỏ bao bọc bên ngoài dần dần tan rã giống như
con người trút bỏ áo khoác bên ngoài ra, tùy
theo các lớp nguyên tử bên trong mà họ thích ứng
với một cảnh giới khác. Cứ như thế, theo
thời gian, khi các áp lực vật chất tan rã hết
thì con người tuần tự tiến lên những cảnh giới
cao hơn. Điều này cũng giống như một
quả bóng bay bị cột vào đó những bao cát; mỗi
lần cởi bỏ được một bao thì quả bóng lại bay cao
hơn một chút cho đến khi không còn bao cát nào,
thì nó sẽ tự do bay bổng. Trong
bảy cảnh giới của cõi âm, thì cảnh thứ bảy có
rung động nặng nề, âm u nhất, nó là nơi chứa các
vong linh bất hảo, những kẻ sát nhân, người mổ
xẻ súc vật, những cặn bã xã hội, những kẻ tư
tưởng xấu xa, còn đầy thú tánh. Vì ở
cõi âm, không có thể xác, hình dáng thường biến
đổi theo tư tưởng, nên những kẻ thú tánh mạnh mẽ
thường mang các hình dáng rất ghê rợn, nửa
người, nửa thú. Những người thiếu kiến thức rõ
rệt về cõi này cho rằng đó là những quỷ sứ. Điều
này cũng không sai sự thật bao nhiêu vì đa số
những vong linh này luôn oán hận, ham muốn, thù
hằn và thường tìm cách trở về cõi trần. Tùy
theo dục vọng riêng tư mà chúng tụ tập quanh các
nơi thích ứng, dĩ nhiên người cõi trần
không nhìn thấy chúng được. Những loài ma đói
khát quanh quẩn bên các chốn trà đình tửu quán,
các nơi mổ xẻ thú vật để tìm những rung động
theo những khoái lạc vật chất tại đây. Khi một
người ăn uống ngon lành họ có các rung động
khoái lạc và loài này tìm cách hưởng thụ theo tư
tưởng này. Đôi khi chúng cũng tìm cách ảnh
hưởng, xúi dục con người nếu họ có tinh thần yếu
đuối, non nớt. Những loài ma dục tình thì quanh
quẩn nơi buôn hương bán phấn, rung động theo
những khoái lạc của người chốn đó, và tìm cách
ảnh hưởng họ. Nếu người sống sử dụng rượu, các
chất kích thích thì ngay trong giây phút mà họ
không còn tự chủ được nữa, các loài ma tìm cách
nhập vào trong thoáng giây để hưởng một chút
khoái lạc vật chất dư thừa. Vì
không được thỏa mãn nên theo thời gian các dục
vọng cũng giảm dần, các nguyên tử nặng trọc cũng
tan theo, vong linh sẽ có các rung động thích
hợp với một cảnh giới cao hơn và y sẽ thăng lên
cõi giới tương ứng. Dĩ nhiên, một người
có đời sống trong sạch, tinh khiết sẽ không lưu
ở cõi này, mà thức tỉnh ở một cõi giới tương ứng
khác. Tùy
theo lối sống, tư tưởng khi ta còn ở cõi trần mà
khi chết ta sẽ đến những cảnh giới tương đồng,
đây chính là định luật “đồng thanh tương ứng,
đồng khí tương cầu”.
Toàn
thể phái đoàn im lặng nhìn nhau, vị pháp sư Ai
Cập đã diễn tả bằng những danh từ hết sức khoa
học, chính xác, chứ không mơ hồ, viển vông. Dù
sao đây vẫn là một lý thuyết rất hay, nhưng chưa
chứng minh được. Có thể đó là một giả thuyết của
những dân tộc nhiều tưởng tượng như người Á châu
chăng?
Hamoud mỉm cười như đọc được tư tưởng mọi người:
- Nếu
các ông biết rằng tôi cũng là một tiến
sĩ vật lý học tốt nghiệp đại học Oxford…
Giáo
sư Harding giật mình kêu lên:
-
Oxford ư? Ông đã từng du học bên xứ chúng tôi
sao?
-
Chính thế, tôi tốt nghiệp năm 1864, và là người
Ai cập đầu tiên tốt nghiệp về ngành này.
(Ghi
chú của giáo sư Spalding: Phái đoàn đã phối kiểm
chi tiết này; hồ sơ đại học Oxford ghi nhận có
một tiến sĩ người Ai Cập tên là Hamud El Sarim
nhập học năm 1856 và tốt nghiệp năm 1864 với
bằng Tiến sĩ Vật lý).
-
Nhưng làm sao ông biết rõ được cõi giới này? Ông
đã đọc sách vở hay dựa trên những bằng chứng ở
đâu?
- Tôi
đã khai
mở các giác quan thể vía, nhờ công phu
tu hành trong nhiều năm. Ngay khi còn là sinh
viên tôi đã say mê môn Vật lý siêu hình
(metaphysics). Tôi dành nhiều thời giờ nghiên
cứu sách vở khoa học, nhưng đến một lúc thì khoa
học phải bó tay. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi đến
với khoa Huyền Bí Học. Tôi học hỏi rất kỹ về môn
này, khi trở về Ai Cập tôi may mắn gặp được các
vị đạo sư uyên bác, nên sự nghiên cứu càng ngày
càng tiến bộ. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi sang Ấn
Độ, và Tây Tạng. Tại đây tôi gặp một Lạt Ma
chuyên nghiên cứu về cõi âm, tôi đã học hỏi rất
nhiều với vị này. Sau đó, tôi tu nhập thất trong
10 năm liền, và khai
mở được một vài giác quan đặc biệt. Từ
đó, tôi tha hồ nghiên cứu cõi âm vì tôi có thể
sang tận đây học hỏi và cõi này trở nên quen
thuộc, tôi kết bạn với rất nhiều sinh
vật siêu hình, chúng giúp đỡ tôi rất
nhiều.
Giáo
sư Evans-Wentz ngập ngừng:
- Ông
muốn nói rằng ông kết bạn với ma?
- Dĩ
nhiên, vì tôi dành trọn thời giờ hoạt động bên
cõi này, nên tôi có rất đông bạn bè, phần lớn là
vong linh người quá cố nhưng cũng có một vài
sinh vật có đường tiến hóa riêng, khác với loài
người, có loài khôn hơn người và có loài không
thông minh hơn loài vật là bao…
-
Giao thiệp với chúng có lợi ích gì không?
- Các
ông nên biết cõi âm là một thế giới lạ lùng,
phức tạp với những luật thiên nhiên khác hẳn cõi
trần. Sự đi lại giao thiệp giúp ta thêm kiến
thức rõ ràng…..
- Như
thế có nguy hiểm không?
- Dĩ
nhiên, có nhiều sinh vật hay vong linh hung ác,
dữ tợn…Một số thầy phù thủy, thường liên lạc với
nhóm này để mưu cầu lợi lộc, chữa bệnh hoặc thư
phù, nguyền rủa…
- Ông
có thể làm như vậy không?
Vị
pháp sư nghiêm mặt:
- Tất
cả những việc gì có tính cách phản thiên nhiên,
ngược luật tạo hóa đều mang lại hậu quả không
tốt. Mưu cầu lợi lộc cho cá nhân là điều tối kỵ
của ai đi trên đường đạo. Tôi không
giao thiệp với những loại vong linh này, vì
chúng rất nguy hiểm, hay phản phúc và thường
giết chết kẻ lợi dụng chúng bất cứ lúc nào. Các
ông nên nhớ tôi là một khoa học gia chứ không
phải một thầy pháp hạ cấp hay một phù thủy chữa
bệnh.
- Xin
ông nói rõ hơn về những cảnh giới cõi âm.
- Các
ông nên biết dù
ở cõi nào, tất cả cũng không ra ngoài các định
luật khoa học. Thí dụ như vật chất có
ba thể: thể đặc, thể lỏng, và thể hơi, thì bên
cõi này cũng có những thể tương tự. Luật thiên
nhiên cho thấy vật nặng sẽ chìm xuống dưới và
vật nhẹ nổi lên trên thì cõi vô hình cũng thế.
Nguyên tử cõi âm rung động với một nhịp độ khác
với cõi trần, các nguyên tử rung động thật nhanh
dĩ nhiên phải nhẹ hơn các nguyên tử nặng trược.
Tóm lại, tùy
theo nhịp độ rung động mà tạo ra những cảnh giới
khác nhau, có bảy loại rung động nên có bảy cõi
giới. Các nguyên tử rung động chậm chạp
phải chìm xuống dưới vì nếu ta mang nó lên cao,
sức ép sẽ làm nó tan vỡ ngay. Thí dụ ta đặt một
quả bóng xuống nước nếu đến một độ sâu nào đó
sức ép của nước sẽ làm nó vỡ tan. Loài cá cũng
thế, có loại sống gần mặt nước, có loại sống tận
đáy đại dương. Nếu loại sống gần mặt biển bị
mang xuống đáy nó sẽ bị sức ép mà chết, ngược
lại nếu loài sống ở dưới đáy cũng không thể lên
sát mặt nước vì đã quen với sức ép khác nhau.Cảnh
giới thứ bảy lúc nào cũng tối tăm, nặng nề với
các vong linh hình dáng ghê rợn, nhưng hoàn toàn
không có vụ quỷ sứ tra tấn tội nhân. Bị
lưu đày ở đây đã là khổ sở lắm rồi, các ông hãy
tưởng tượng bị dục vọng hành hạ mà không thể
thỏa mãn thì còn khổ gấp trăm lần bị tra tấn.
Vong linh thèm muốn nhưng không sao thỏa mãn
được, như đói mà không thể ăn, khát không thể
uống. Do đó, theo
thời gian y sẽ học bài học chịu đựng, nhẫn nhục
cho đến khi dục vọng giảm bớt và tan rã thì y sẽ
thăng lên cảnh giới thứ sáu.
Cõi
giới thứ sáu có sự rung động rất giống như cõi
trần, tại đây các vong linh ít còn thèm muốn vật
chất như ăn uống, dục tình, nhưng bận tâm với
những nhỏ nhen của cuộc sống như thỏa mãn bản
ngã, ích kỷ, ghen tuông, hờn giận v.v...
Đa số
có hình dáng giống như người cõi trần nhưng lờ
mờ không rõ. Vì sự rung động của nguyên tử gần
giống như cõi trần nên họ hay trở về cõi này, họ
thường nhập vào đồng cốt, các buổi cầu cơ [ma],
cầu hồn để chỉ dẫn bậy bạ, nói chuyện vu vơ nhằm
thỏa mãn tự ái, bản ngã cá nhân. Vì đa
số vong linh khi còn sống rất ham mê danh vọng,
chức tước, uy quyền nên khi họ nhập vào đồng cốt
họ thường tự xưng là các đấng này, đấng nọ. Theo
thời gian, các rung động ham muốn, các cố chấp
về bản ngã, danh vọng cũng tan biến nên họ thăng
lên cảnh giới thứ năm.
Cõi
thứ năm có sự rung động thanh nhẹ hơn cõi trần
nên vong linh có thể biến đổi sắc tướng rất
nhanh chóng. Đây là một thế giới với những âm
thanh màu sắc lạ lùng dễ bị mê hoặc. Các vong
linh ở đây đã bớt ham muốn về cá nhân nhưng còn
ham muốn về tư tưởng, kiến thức. Đây là nơi cư
ngụ của những kẻ đạo đức giả, những kẻ bảo thủ
nhiều thành kiến, những người trí thức tự phụ
v.v...
Đây
cũng là cõi có những sinh hoạt của loài Tinh
linh: những sinh vật vô hình có hình dáng hao
hao giống như người mà ta thường gọi là Thiên
tinh (Sylphes), Thổ địa (Gnomes), Phong tinh
(Elfs) v.v... Một số bị thu phục bởi các phù
thủy, pháp sư để làm ảo thuật hay luyện phép.
Cõi này còn có sự hiện diện của những "Hình tư
tưởng" (Artificial Elements).
Các
ông nên biết, khi một tư tưởng hay dục vọng phát
sinh thì chúng sử dụng tinh chất (Essence) cõi
này tạo nên một hình tư tưởng thích hợp.
Đời sống của chúng tùy theo sức mạnh của tư
tưởng mạnh hay yếu. Vì đa số tư tưởng con người
còn mơ hồ nên hình tư tưởng chỉ tạo ra ít lâu là
tan rã ngay. Một
người tập trung tư tưởng có thể tạo ra một hình
tư tưởng sống lâu trong vài giờ hay vài ngày.
Một pháp sư cao tay có thể tạo ra các hình tư
tưởng sống đến cả năm hay thế kỷ, không những
thế hình tư tưởng này còn chịu sự sai khiến của
ông ta. Các phù thủy luyện thần thông đều dựa
trên nguyên tắc cấu tạo một sinh vật vô hình để
sai khiến. Hình tư tưởng không chỉ phát sinh từ
một cá nhân mà còn từ một nhóm người hay một
quốc gia, dân tộc. Khi một đoàn thể, dân tộc
cùng một ý nghĩ, họ sẽ tạo ra một hình tư tưởng
của đoàn thể, quốc gia đó. Hình tư tưởng này sẽ
tạo một ảnh hưởng vô cùng rộng lớn đối với tình
cảm, phong tục, thành kiến của quốc gia, dân
tộc. Ta có thể gọi đó là “hồn thiêng sông núi”
hay “dân tộc tính”.
Khi
sinh ra tại một quốc gia, ta ít nhiều chịu ảnh
hưởng của hình tư tưởng này, dĩ nhiênchúng
chỉ ảnh hưởng lên thể vía nghĩa là tình cảm của
dân tộc đó chứ không ảnh hưởng đến lý trí. Một
người sống nhiều bằng lý trí sẽ ít chịu ảnh
hưởng như người bình thường. Ðiều này
giải thích tại sao một dân tộc có tâm hồn mơ
mộng như thi sĩ, trong khi dân tộc khác lại có
đầu óc thực tế, mặc dù trên phương diện địa lý,
họ không ở cách xa nhau mấy và ít nhiều chia sẻ
một số quan niệm về tôn giáo, phong tục, tập
quán.
Cảnh
giới cõi thứ tư sáng sủa hơn và dĩ nhiên nguyên
tử cõi này rung động rất nhanh. Phần lớn những
vong linh tiến hóa, thánh thiện, những nhà trí
thức trầm mặc nhưng còn quyến luyến một ít dục
vọng, khi chết đều thức tỉnh ở cảnh giới này.
Ða số
đều ý thức ít nhiều nên họ bắt đầu cởi bỏ những
ham muốn, quyến luyến. Ðây
cũng là chỗ họ học hỏi và ảnh hưởng lẫn nhau và
đôi khi kết những liên hệ để cùng nhau tái sinh
trong một gia đình hay quốc gia.
Cõi
gới thứ ba chói sáng, có những rung động nhẹ
nhàng, tại đây có những linh hồn từ tâm nhưng
vụng về, những tu sĩ thành tâm nhưng thiếu trí
tuệ, những nhà lãnh đạo anh minh nhưng thành
kiến. Ðây cũng là một cảnh giới của một số thần
linh (Devas) như Cảm dục thiên thần (Kamadeva),
Hữu sắc thiên thần (Roupadeva) và Vô sắc thiên
thần (Aroupadeva). Các
thần linh này có đời sống và tiến hóa cao hơn
trình độ của nhân loại.
Cõi
giới thứ hai và thứ nhất cấu tạo bằng những
nguyên tử hết sức thanh thoát, rung động rất
nhanh và tràn đầy ánh sáng. Ðây là cõi giới mà
những người tiến hóa rất cao, rất tế nhị không
còn dục vọng ham muốn, lưu lại để học hỏi, trao
đổi kinh nghiệm, phát triển các đức tính riêng
trước khi siêu thoát lên cảnh giới cao hơn.
- Như
thế người chết thường lưu lại ở cõi Trung giới
bao nhiêu lâu?
- Thời
gian lưu lại đây hoàn toàn tùy thuộc vào dục
vọng con người, có người chỉ ghé lại đây vài giờ
lập tức đầu thai trở lại. Có kẻ ở đây hàng năm
và có kẻ lưu lại đây hàng thế kỷ... Ðể siêu
thoát, thể Vía phải hoàn toàn tan rã hết thì mới
lên đến cõi Thượng Thiên (Devakhan) hay siêu
thoát. Giống như một quả bóng bay bị
cột vào đó nhiều bao cát, chỉ khi nào cởi bỏ tất
cả bao cát thì nó mới tự do tung bay được. Tóm
lại danh từ như Thiên đàng hay Ðịa ngục chỉ là
những biểu tượng của những cảnh ở cõi Trung giới
(Kamaloka). Tùy theo sự sắp xếp của thể Vía khi
chết mà ta thức tỉnh trong một cảnh giới tương
ứng...
Mọi
người im lặng nhìn nhau, những
điều Hamoud giải thích hoàn toàn hợp lý và hết
sức khoa học, không hoang đường chút nào.
Nhưng làm sao chứng minh những điều mà khoa học
thực nghiệm không thể nhìn thấy được? Dù sao
Hamoud cũng là một Tiến sĩ Vật lý tốt nghiệp tại
Ðại học nổi tiếng nhất Âu châu chứ không phải
một phù thủy vô học chốn hoang vu, ít nhiều ông
ta cũng có một tinh thần khách quan vô tư của
một khoa học gia chứ không mê tín dễ chấp nhận
một lý thuyết vu vơ, không kiểm chứng. Nhưng làm
sao có thể thuyết phục những người Âu Mỹ vốn rất
tự hào, nhiều thành kiến và tin tưởng tuyệt đối
ở khoa học?
Hamud
mỉm cười tiếp tục:
- Sự
hiểu biết về cõi vô hình rất quan trọng vì khi
hiểu rõ những điều xảy ra sau khi chết, ta sẽ
không sợ chết nữa. Nếu có chết chỉ là
hình hài, xác thân chứ không phải sự sống, và
hình hài có chết đi thì sự sống mới tiếp tục
tiến hóa ở một thể khác tinh vi hơn.
Ðây là một vấn đề hết sức hợp lý và khoa học cho
ta thấy rõ sự công bình của vũ trụ. Khi còn
sống, con người có dục vọng nầy nọ, khi
dục vọng được thỏa mãn nó sẽ gia tăng mạnh mẽ,
đồng thời các chất thô kệch, các rung động nặng
nề sẽ bị thu hút vào thể vía. Sau khi
chết, dục vọng này trở nên mạnh mẽ vì
không còn lý trí kiểm soát nữa, chính thế nó sẽ
đốt cháy con người của ta. Sự nung đốt
của dục vọng chẳng phải địa ngục là gì?
Giống
như đức tính, phẩm hạnh khi còn trẻ quyết định
điều kiện sinh sống lúc tuổi già,đời
sống cõi trần quyết định đời sống bên kia cửa tử.
Luật này hết sức hợp lý và dễ chứng minh: Khi
còn trẻ ta tập thể thao, giữ thân thể khỏe mạnh
thì khi về già ta sẽ ít bệnh tật, khi còn trẻ ta
chịu khó học hỏi, có một nghề nghiệp vững chắc
thì khi về già đời sống được bảo đảm hơn, có
đúng thế không?
Những
người nào chế ngự được dục vọng thấp hèn, làm
chủ được đòi hỏi thể xác, thì các dục vọng này
không thể hành hạ khi ta chết.
Luật thiên nhiên định rằng khi về già thể xác
yếu dần, đau ốm khiến cho ta bớt đi các ham muốn
và nhờ thế, dục vọng cũng giảm bớt rất nhiều nên
thể Vía cũng thanh lọc bớt các chất nặng nề, ô
trược để khi chết sẽ thức tỉnh ở cảnh giới cao
thượng hơn. Trái lại những người còn trẻ, lòng
ham muốn còn mạnh mẽ, nếu chết bất đắc kỳ tử
thường đau khổ rất nhiều và phải lưu lại cõi
Trung giới lâu hơn. Nếu
hiểu biết như thế, ta cần phải duyệt xét lại đời
sống của mình ở cõi trần để khỏi lưu lại những
cảnh giới thấp thỏi, nặng nề bên cõi âm. Những
người lớn tuổi cần chuẩn bị để dứt bỏ các quyến
luyến, ràng buộc, các lo lắng ưu phiền, các
tranh chấp, giận hờn, phải biết xả ly, dứt bỏ
mọi phiền não để mau chóng siêu thoát.
Một
sự chuẩn bị ở cõi trần sẽ rút ngắn thời gian bên
cõi âm và chóng thúc đẩy thời gian lên cõi
thượng giới.
-
Nhưng còn các ma quỷ thì sao?
- Các
ông cứ cho rằng ma quỷ là một thực thể nào đó
khác hẳn loài người, thật ra phần lớn chúng là
những vong linh sống ở cảnh giới thứ bảy, thứ
sáu mà thôi. Chúng
còn lưu luyến cõi trần, còn say mê dục vọng,
không sao thoát ra khỏi cảnh giới này...
Luật thiên nhiên không cho phép chúng trở lại
cõi trần, nhưng cũng có những trường hợp đặc
biệt khiến người cõi trần trong một thoáng giây
có thể nhìn thấy chúng... Khoan đã, các ông hãy
xem kìa, người bạn của tôi đã làm xong việc.
Hamud
chỉ vào góc phòng nơi ông ta để bó len và cây
kim đan áo. Mọi người bước đến gần và thấy một
chiếc áo len đan bằng tay đã thành hình từ lúc
nào không ai rõ. Chiếc áo đan tay rất vụng,
không khéo léo nhưng trên ngực có thêu tên giáo
sư Mortimer. Vị pháp sư giải thích:
- Con
ma này rất nghịch và thường quanh quẩn ở đây,
tôi yêu cầu hắn đan chiếc áo len cho các ông để
làm bằng chứng. Ðể tránh việc các ông cho rằng
tôi đã làm trò ảo thuật, tráo vào đó một chiếc
áo len khác, tôi yêu cầu hắn thêu tên người nào
trong phái đoàn có nhiều nghi ngờ nhất. Các ông
đều biết rằng từ khi gặp gỡ tôi không hề hỏi tên
các ông, và nếu chiếc áo này không đan riêng cho
các ông thì còn ai nữa?
Quả
thế, vị pháp sư gầy gò không thể mặc chiếc áo
đan to tướng, rất vừa vặn cho giáo sư Mortimer,
một người Âu mà kích thước đã rất ư quá khổ so
với những người Âu khác, đó là chưa kể vòng bụng
khổng lồ rất hiếm có của ông này. Hơn nữa, áo
này cũng không thể may sẵn để bán vì đường kim,
mũi chỉ rất ư vụng về nếu có bán cũng chả ai
mua. Tại nơi hoang vu, không có ai ngoài vị Pháp
sư và phái đoàn, sự kiện này quả thật rất lạ
lùng.
Giáo
sư Evans-Wentz thắc mắc:
- Như
vậy ông có thể sai khiến ma quỷ hay sao?
- Tôi
không phải là một phù thủy lợi dụng quyền năng
cho tư lợi, mà chỉ là một người có rất nhiều bạn
hữu vô hình bên cõi âm. Tôi
hiểu rõ các luật thiên nhiên như Luân Hồi, Nhân
Quả và hậu quả việc thờ cúng ma quỷ để mưu cầu
một cái gì.
Tôi
chỉ là một khoa học gia nghiên cứu cõi vô hình
một cách đứng đắn. Sự
nghiên cứu những hiện tượng siêu hình là một
khoa học hết sức đứng đắn, chứ không
phải mê tín dị đoan. Nhiều người thường tỏ ý chê
cười khi nói đến vấn đề ma quỷ, nên những ai có
gặp ma cũng chả dám nói vì sợ bị chê cười hay
cho là loạn trí. Nếu
người nào không tin hãy nghiên cứu và chứng minh
một cách khoa học rằng ma quỷ chỉ là những giả
thuyết tưởng tượng, còn như phủ nhận
không dám chứng minh thì chỉ là một cái cớ che
dấu sự sợ hãi. Ðiều khoa học chưa chứng minh
được không có nghĩa điều này không có thật, vì
một ngày nào đó khoa học sẽ tiến đến mức mà họ
có thể chứng minh.Những phương pháp
thông thường như cầu cơ, đồng cốt thường gặp
nhiều sai lầm vì như tôi đã trình bày, các vong
linh nhập vào phần lớn cũng có các kiến thức
giới hạn ở cảnh giới nào đó. Ðôi khi họ
cũng trích dẫn vài câu trong Thánh Kinh hoặc
sách vở, kinh điển để nâng cao giá trị lời nói,
điều này có khác nào những nhà chính trị khi
diễn thuyết. Phương pháp khoa học chính xác nhất
là phải tự mình qua hẳn thế giới đó nghiên cứu.
Các
ông nên biết, thân
thể chúng ta không phải là môi trường duy nhất
của linh hồn, và giác quan của nó cũng không
phải là phương tiện duy nhất để nghiên cứu ngoại
cảnh.
Nếu
ta chấp nhận rằng vũ
trụ có nhiều cõi giới khác nhau và mỗi thể con
người tương ứng với một cõi thì
ta thấy ngay rằng, thể xác cấu tạo bằng nguyên
tử cõi trần nên chỉ giới hạn trong cõi này được
thôi. Các
thể khác cũng có giác quan riêng của nó,
và khi giác quan thể Vía được khai mở ta có thể
quan sát các cõi giới vô hình dễ dàng. Khi từ
trần, thể xác tiêu hao, các giác quan không còn
sử dụng được nữa thì linh
hồn sẽ tập phát triển các giác quan thể Vía ngay.
Nếu biết cách khai mở các giác quan này khi còn
sống, ta có thể nhìn thấy cõi âm một cách dễ
dàng.
Giáo
sư Allen ngập ngừng:
-
Nhưng có một quan niệm lại cho rằng sau khi chết
linh hồn sẽ lên Thiên đàng hay xuống địa ngục
vĩnh viễn, điều này ra sao?
Hamoud lắc đầu:
- Ðó
là một quan niệm không hợp lý, vì điều này cho
rằng khi chết linh hồn sẽ đổi thay toàn diện:
Sau khi chết, linh hồn sẽ mất hết tính xấu để
trở nên toàn thiện, trở nên một vị thiên thần
vào cõi thiên đàng hoặc là linh hồn có thể mất
hết các tính tốt để trở nên xấu xa, trở nên một
thứ ma quỷ bị đẩy vào địa ngục. Ðiều
này vô lý, vì sự tiến hóa phải từ từ chứ không
thể đột ngột được, trên
thế gian này không ai toàn thiện hay toàn ác.
Trong mỗi chúng ta đều có các chủng tử xấu, tốt
do các duyên, nghiệp từ tiền kiếp để lại. Tùy
theo điều kiện bên ngoài mà những chủng tử này
nẩy mầm, phát triển hay thui chột, không thể
phát triển. Một
người tu thân là một người biết mình, lo vun xới
tinh thần để các nhân tốt phát triển, giống như
một người làm vườn lo trồng hoa và nhổ đi cỏ dại.
Thực
ra khi sống và chết, con người không thay đổi
bao nhiêu. Nếu khi sống họ ăn tham thì khi chết
họ vẫn tham ăn, chỉ có khác ở chỗ điều này sẽ
không còn được thỏa mãn vì thể xác đã hư thối,
tan rã mất rồi. Sau
khi chết, tìm về nhà thấy con cháu ăn uống linh
đình mà họ thì không sao ăn được, lòng ham muốn
gia tăng cực độ như lửa đốt gan, đốt ruột, đau
khổ không sao tả được.
- Như
ông đã nói loài ma đói thường rung động theo
không khí quanh đó, như thế họ có thỏa mãn
không?
- Khi
người sống ăn ngon có các tư tưởng khoái lạc thì loài
ma đói xúm quanh cũng tìm cách rung động theo tư
tưởng đó, nhưng
không làm sao thỏa mãn cho được. Ðiều
này ví như khi đói, nghĩ đến món ăn ngon ta thấy
khoan khoái, ứa nước bọt, nhưng điều này đâu có
thỏa mãn nhu cầu bao tử đâu. Các loại ma hung
dữ, khát máu thường tụ tập nơi mổ xẻ súc vật, lò
sát sinh để rung động theo những không khí thô
bạo ở đó. Những người giết súc vật trong nhà vô
tình mời gọi các vong linh này đến, sự
có mặt của chúng nó có thể gây nhiều ảnh hưởng
xấu, nhất là cho những người dễ thụ cảm.
- Ða
số mọi người đều cho rằng ma quỷ thường xuất
hiện ở nghĩa địa, điều này ra sao?
- Sự
hiện hình ở nghĩa địa chỉ là hình thể của thể
Phách đang tan rã chứ không phải ma quỷ, vong
linh. Khi ta chết, thể xác hư thối thì thể
phách vốn là thể trung gian giữa thể xác và thể
vía cũng
tan rã theo. Thể phách được cấu tạo bằng những
nguyên tử tương đồng với nguyên tử cõi trần,
nhưng trong đó có nhiều nguyên tử Dĩ thái nên
nhẹ hơn, nó thu thập các sinh lực còn rơi rớt
trong thể xác để cố gắng kéo dài sự sống thêm
một thời gian nữa; vì đang tan rã nên thể Phách
không hoàn toàn, do đó, đôi khi ta thấy trên
nghĩa địa có những hình ảnh người cụt đầu, cụt
chân, bay là là trên các nấm mồ. Người không
hiểu gọi đó là ma.
Theo
sự hiểu biết của tôi thì việc
thiêu xác tốt đẹp hơn việc chôn cất, vì
để thể xác tan rã từ từ làm cho linh hồn đau khổ
không ít và thường ở trong một giai đoạn hôn mê,
bất động một thời gian rất lâu. Thiêu
xác khiến vong linh thấy mình không còn gì quyến
luyến nữa nên siêu thoát nhanh hơn nhiều.
- Ma
quỷ thường thuộc thành phần gì trong xã hội?
- Chúng
thuộc đủ mọi thành phần, tùy theo dục vọng khi
còn sống. Người chết bất đắc kỳ tử
thường lưu lại cõi âm lâu hơn người chết già, vì
còn nhiều ham muốn hơn. Những kẻ sát nhân bị
hành quyết vẫn sống trong cảnh tù tội, giận hờn
và có ý định trả thù. Một người tự tử để trốn nợ
đời cũng thế, y sẽ hôn mê trong trạng thái khổ
sở lúc tự tử rất lâu. Ðịnh luật cõi âm xác nhận
rằng: Chính
cái dục vọng của ta quyết định cảnh giới ta sẽ
đến và lưu lại ở đó lâu hay mau.
- Số
phận của những người quân nhân tử trận thì ra
sao?
- Họ
cũng không ra ngoài luật lệ đó, tùy
theo dục vọng từng cá nhân. Tuy nhiên,
người hy sinh tính mạng cho một lý tưởng có một
tương lai tốt đẹp hơn vì cái chết cao đẹp là một
bức thang lớn trong cuộc tiến hóa. Họ đã quên
mình để chết và sống cho lý tưởng thì cái chết
đó có khác nào những vị Thánh tử đạo. Dĩ
nhiên không phải quân nhân nào cũng sống cho lý
tưởng, và những kẻ giết chóc vì oán thù
và chết trong oán thù thì lại khác hẳn.
- Như
ông nói thì người chết vẫn thấy người sống?
-
Thật ra phải nói như thế này, khi
chết các giác quan thể xác đều không sử dụng
được nữa nhưng người chết vẫn theo dõi mọi sự dễ
dàng nhờ các giác quan thể vía. Không
những thế họ còn biết rất rõ tư tưởng, tình cảm
liên hệ là đằng khác, mặc dù họ không còn nghe
thấy, nhìn thấy như chúng ta. Nhờ
đọc được tư tưởng họ vẫn hiểu điều chúng ta muốn
diễn tả.
- Như
vậy thì họ ở gần hay ở xa chúng ta?
- Khi
mới từ trần, người chết luôn quanh quẩn bên gia
đình, bên những người thân nhưng theo thời gian,
khi ý thức hoàn cảnh mới họ sẽ tách rời các ràng
buộc gia đình để sống hẳn ở cõi giới của họ.
- Như
thế có cách nào người sống tiếp xúc được với
thân nhân quá cố không?
-
Ðiều này không có gì khó, hãy nghĩ đến họ trong
giấc ngủ. Thật
ra nếu hiểu biết thì ta không nên quấy rầy, vì
làm thế chỉ gây trở ngại cho sự siêu thoát.
Sự
chết là bước vào một đời sống mới, các sinh lực
từ trước vẫn hướng ra ngoài thì nay quay vào
trong,
linh hồn từ từ rút khỏi thể xác bằng một bí
huyệt trên đỉnh đầu. Do đó, hai chân từ từ lạnh
dần rồi đến tay và sau cùng là trái tim. Lúc
này người chết thấy rất an tĩnh, nhẹ nhàng không
còn bị ảnh hưởng vật chất. Khi linh hồn
rút lên óc, nó sẽ khơi động các ký ức, cả cuộc
đời sẽ diễn lại như cuốn phim. Hiện tượng này
gọi là "Hồi quang phản chiếu" (Memory
Projection), đây là một giây phút hết sức quan
trọng vì nó ảnh hưởng rất lớn đến đời sống cõi
bên kia. Sợi dây từ điện liên hệ giữa thể xác và
thể Phách sẽ đứt hẳn. Ðây là lúc người chết hoàn
toàn hôn mê, vô ý thức để linh hồn rút khỏi thể
Phách, và thể
Vía bắt đầu lo bảo vệ sự sống của nó bằng cách
xếp lại từng lớp nguyên tử, lớp nặng bọc ngoài
và lớp thanh nhẹ ở trong. Sự thu xếp này ấn định
cõi giới nào vong linh sẽ đến.
- Ông
du hành sang cõi âm thế nào?
- Nói
như thế không đúng lắm vì ám chỉ một sự di
chuyển từ nơi này đến nơi khác. Các cõi thật ra
ở cùng một nơi chỉ khác nhau ở chiều không gian
và thời gian (Time, Space dimension). Sang cõi
âm là sự chuyển tâm thức, sử
dụng giác quan thể Vía để nhận thức chứ
không phải đi đến một nơi nào hết. Sở dĩ cõi
trần không thấy cõi âm vì nguyên tử cấu tạo nó
quá nặng nề, rung động quá chậm không thể đáp
ứng với sự rung động nhanh của cõi âm. Quan niệm
về không gian cũng khác vì đây là cõi tư tưởng,
nghĩ đến đâu là ta đến đó liền, muốn gặp ai chỉ
cần giữ hình ảnh người đó trong tư tưởng ta sẽ
gặp người đó ngay. Khi di chuyển ta có cảm giác
như lướt trôi, bay bổng vì không còn đi bằng hai
chân như thể xác.
-
Những người chết nhận thức về đời sống mới ra
sao?
- Trừ
những kẻ cực kỳ hung dữ, ghê gớm, đa
số mọi người thức tỉnh trong cảnh giới thứ năm
hoặc thứ sáu vốn có rung động không khác cõi
trần là bao. Lúc đầu họ còn bỡ ngỡ,
hoang mang nhưng sau sẽ quen đi. Tùy
theo tình cảm, dục vọng mà họ hành động.
Tôi đã gặp vong linh của một thương gia giàu có,
ông này cứ quanh quẩn trong ngôi nhà cũ nhiều
năm, ông cho tôi biết rằng ông rất cô đơn và đau
khổ. Ông không có bạn và cũng chả cần ai, ông
trở về căn nhà để sống với kỷ niệm xưa nhưng ông
buồn vì vợ con ông vẫn còn đó nhưng chả ai để ý
đến ông. Họ tin rằng ông đã lên Thiên Ðàng vì họ
đã bỏ ra những số tiền, tổ chức các nghi lễ tôn
giáo rất lớn, một tu sĩ đã xác nhận thế nào ông
cũng được lên Thiên Ðàng. Tôi
khuyên ông ta nên cởi bỏ các quyến luyến để siêu
thoát nhưng ông ta từ chối. Một
vài người thân đã qua đời cũng đến tìm gặp nhưng
ông cũng không nghe họ. Có lẽ ông ta sẽ
còn ở đó một thời gian lâu cho đến khi các lưu
luyến phai nhạt hết. Tôi đã gặp những vong linh
quanh quẩn bên cạnh cơ sở mà họ gây dựng nên, họ
vô cùng đau khổ và tức giận vì không còn ảnh
hưởng được gì, họ rất khổ sở khi người
nối nghiệp, con cháu có quyết định sai lầm, tiêu
phá cơ nghiệp.
Tôi
đã gặp những người chôn cất của cải, phập phồng
lo sợ có kẻ tìm ra, họ vẫn quanh quẩn gần đó và
đôi khi tìm cách hiện về dọa nạt những người bén
mảng đến gần nơi chôn dấu. Vong linh ghen tuông
còn khổ sở hơn nữa, họ không muốn người họ yêu
mến chia sẻ tình yêu với kẻ khác. Ðôi khi họ
điên lên khi chứng kiến sự âu yếm của người họ
yêu mến và người khác. Dĩ nhiên họ không thể làm
gì được nên vô cùng khổ sở. Những nhà lãnh đạo,
những vua chúa, những người hống hách quyền uy
thì cảm
thấy bất lực khi không còn ảnh hưởng gì được
nữa, họ hết sức đau khổ.
Ðôi
lúc tư tưởng oán hờn có thể tạo nên những hình
tư tưởng có sự sống riêng biệt và có tác dụng
mạnh mẽ ở cõi vô hình. Cách đây vài năm, một
người bạn ở Calcutta cho tôi biết có một con dao
cán ngà rất đẹp mà hễ ai cầm lên cũng có ý định
giết người. Tôi bèn tìm đến và cầm thử thì quả
nhiên trong người bị kích động lạ thường. Nhờ đã
mở giác quan thể Vía nên tôi thấy một vong linh
hung tợn đang giận dữ vì tôi chống lại y, nhờ
các bạn bè cõi âm tôi tiếp xúc được với tư tưởng
vong linh đó: Vợ y đã ngoại tình với người bạn
thân nên y sử dụng con dao này đâm chết cả hai.
Sau đó y còn đâm chết hai người em vợ và bị một
người khác dùng chính con dao đó đâm chết y. Sau
khi chết, lòng oán hận khôn nguôi nên y quanh
quẩn bên con dao này và ảnh hưởng đến bất cứ ai
sử dụng nó. Nhiều người đã bị y xúi giục giết
người, y rất thành công cho đến khi gặp tôi.
Phải mất một thời gian lâu tôi mới thuyết phục
được y, tôi bèn bẻ gẫy con dao đó đem chôn.
Một
trường hợp khác tôi gặp một vong linh say rượu
bị xe đụng chết. Y rất oán hận nên cứ vẩn vơ nơi
ngã tư đường, hướng dẫn những người lái xe cho
họ gặp tai nạn. Rất nhiều người bị chết ở đó.
Tôi mất nhiều thời gian khuyên giải nên y mới bỏ
đi nơi khác. Dĩ nhiên, sớm
muộn gì các vong linh cũng tỉnh ngộ nhưng
việc làm của y là những nguyên nhân xấu sẽ tạo
những nghiệp quả mà y sẽ phải trả vì ở bất cứ
cõi nào, luật thiên nhiên cũng không thay đổi.
Trong
một trường hợp khác, có hai người bạn rất thân
thiết nhưng cùng yêu một cô gái. Ðể chiếm đoạt
cô này, một người đã âm mưu khiến bạn mình bị
tình nghi có dính dáng vào một tổ chức chính
trị, anh này bị bắt và bị thủ tiêu. Người kia
chinh phục cô gái nhưng không thành công và ít
lâu sau cô này lấy chồng khác. Anh đau khổ bèn
tự tử. Thế là cả hai người bạn đều sang cõi bên
kia nhưng người bị thủ tiêu không biết mình là
nạn nhân của bạn, vẫn mến bạn nên đi tìm gặp.
Trái lại, anh kia lúc nào cũng bị lương tâm dằn
vặt, thường trốn tránh, ẩn náu. Sự tìm gặp này
kéo dài rất lâu khiến người bạn tội lỗi lúc nào
cũng đau khổ, hối hận.
Hamoud lắc đầu:
- Các
ông nên biết, ở
cõi trần có thể trốn tránh được chứ ở cõi âm làm
sao trốn đi đâu? Ðây là cõi của tư tưởng chỉ cần
nghĩ đến nhau là đã gặp nhau rồi...
Mọi
người im lặng, cảm thấy thấm thía điều vị pháp
sư Ai Cập diễn tả. Giáo sư Mortimer lên tiếng:
- Xin
ông giải thích thêm về hình tư tưởng...
- Khi
ta phát ra một tư tưởng thì ở cõi trung giới một
hình tư tưởng được tạo ra.Nếu
tư tưởng đó có tính cách cá nhân thì chúng bay
vơ vẩn quanh ta, dĩ nhiên khi còn sống,
ta không ý thức điều này nhưng khi ta chết ta
thấy nó rõ ràng. Nhờ thế ta có thể biết tư tưởng
của mình tốt đẹp hay xấu xa. Cũng như thế, khi
ghen ghét oán hận ai, ta cũng tạo các hình tư
tưởng bao quanh người đó. Vì khả năng tập trung
tư tưởng của con người rất yếu nên hình tư tưởng
cũng chỉ phất phơ rồi tan biến, không để lại dấu
vết. Tuy nhiên, khi đã có thành kiến với ai, ta
tạo nên một hình tư tưởng có thể sống lâu hơn và
tư tưởng này bao quanh kẻ đó. Luật thiên nhiên
đã định "Ðồng thanh tương ứng" nghĩa là tư tưởng
chỉ có tác dụng khi đối tượng có rung động tương
tự. Một
kẻ xấu xa sẽ trở nên xấu xa hơn, nhưng tư tưởng
xấu không thể hại người lương thiện. Do đó, vấn
đề kiểm soát tư tưởng, tránh các thành kiến là
một vấn đề quan trọng vì ta có trách nhiệm với
tư tưởng của mình.
Tôi
đã gặp một thiếu nữ nhan sắc diễm lệ, cô này rất
kiêu căng thường quyến rủ các thanh niên háo sắc
rồi phụ bạc họ. Nhiều người đã tán gia, bại sản
về tay cô, có kẻ đau khổ tự tử. Các
tư tưởng giận hờn, oán ghét của nhiều người cấu
tạo nên một hình tư tưởng hết sức dữ tợn.
Khi cô này vừa chết, hình tư tưởng này bám cô
bén gót, cô càng chạy trốn, nó càng theo đến
cùng. Các bạn hãy tưởng tượng một quái vật theo
mình như bóng với hình thì sao?
Hamoud ngưng nói đưa mắt nhìn mọi người. Phái
đoàn im lặng nhìn nhau, họ đã nghe nói về cõi âm
nhưng chưa ai giải thích rõ rệt, khoa học và cụ
thể như vị pháp sư này. Có nên tin hay không?
Làm sao kiểm chứng đây? Việc chứng minh bằng
chiếc áo len đã làm mọi người kinh ngạc nhưng cả
một thế giới vô hình lại là một đề tài quá rộng
rãi, bao quát, vượt khỏi tầm hiểu biết của mọi
người. Phải chăng đó chỉ là một sự tưởng tượng
hết sức dồi dào và chu đáo? Dù cho Hamoud là một
tiến sĩ, tốt nghiệp Oxford nhưng không có nghĩa
ông ta có đủ thẩm quyền để trình bày sự kiện
không chứng minh.
Hamoud mỉm cười như đọc được tư tưởng mọi người:
- Nhờ
khai mở các giác quan đặc biệt, tôi có thể thấy
cõi vô hình trực tiếp mà không phải qua bất cứ
trung gian nào. Thay vì nói rằng sách vở này nói
thế hoặc tài liệu kia chỉ dẫn vậy. Tôi dám quả
quyết rằng điều trình bày là kinh nghiệm mà tôi
đã trải qua, đã nghiên cứu trong nhiều năm. Dĩ
nhiên, tôi
không mong các ông chấp nhận, tôi mong các ông
hãy suy nghĩ cẩn thận, hãy tìm hiểu và
nếu còn thắc mắc hãy đặt vấn đề thảo luận. Tôi
mong các ông lấy tinh thần khoa học suy xét, lấy
lý luận làm căn bản để cùng nhau đặt lại vấn đề.
Sự nghiên cứu không thể giản dị, dễ dàng được mà
còn rất nhiều khúc mắc rắc rối, nhưng có thế thì
mới có những thích thú...
Mọi
người nhìn nhau, nhà pháp sư này đã dám đưa một
vấn đề trừu tượng như cõi siêu hình ra để thảo
luận. Giáo sư Allen lên tiếng:
- Từ
trước đến nay, người Âu không bao giờ chấp nhận
sự hiện hữu của một thế giới bên kia cửa tử. Họ
chỉ có thể nhìn nhận điều ông nói như một “tin
tưởng” nào thôi, thay vì một dữ kiện khoa học có
thể kiểm chứng.
Vị
pháp sư mỉm cười:
- Các
ông gọi nó là tin tưởng cũng được, thật ra sự
hiện hữu về cõi vô hình đã được truyền dạy từ
lâu trong các giáo điều, kinh điển, nhưng nó
được nói đến dưới hình thức biểu tượng hay ý
nghĩa bóng bẩy, mà theo thời gian các giáo sĩ
thiếu kinh nghiệm tâm linh không thể hiểu thấu
đáo. Do đó, họ đã nói sai lạc đi nhiều. Dần dần,
những điều này trở nên mê tín dưới ánh sáng khoa
học. Ðây là một điều hết sức đáng tiếc, khoa học
thật ra chỉ là một phần rất nhỏ của Huyền Bí Học
đã được truyền bá rộng rãi mà thôi. Nếu các ông muốn
có một chứng minh cụ thể cũng được, tôi sẵn sàng
tiết lộ một chìa khóa vào cõi âm. Ðiều
tôi sắp trình bầy là căn bản môn Hình học Ai Cập
hiện đã thất truyền:
Ở cõi
trần, tâm thức con người bị giới hạn bởi ba
chiều không gian. Thật
ra có nhiều chiều nữa mà ta không nhìn thấy.
Khối óc của ta chỉ chấp nhận chiều dài, chiều
ngang và chiều đứng mà thôi. Dĩ nhiên, mọi sự đi
đứng, di chuyển cũng chỉ giới hạn trong ba chiều
này. Nếu tôi nói có một chiều đo thứ tư thẳng
góc với ba chiều này thì các ông sẽ không thể
tưởng tượng nổi. Nhưng không thấy được đâu có
nghĩa là nó không hiện hữu có phải không? Muốn
tìm hiểu chiều đo thứ tư này ta cần dùng đến sự
so sánh. Thí dụ có một con kiến đang bò trên một
tờ giấy phẳng. Giả thuyết rằng con kiến không
thể rời khỏi tờ giấy này được nên thế giới của
nó chỉ là một mặt phẳng giới hạn trong hai bề
đo. Dù nó biết suy luận nó cũng không thể quan
niệm được bề đo thứ ba tức là bề đứng. Từ không
gian ba chiều của chúng ta, ta có thể làm nhiều
điều tầm thường mà con kiến cho là một phép lạ,
thí dụ như ta để một hạt thóc lên tờ giấy. Con
kiến không thể hiểu hạt thóc từ đâu xuất hiện vì
giới hạn trong hai bề đo của tờ giấy, nó nghĩ
rằng mọi vật phải đến từ tờ giấy chứ không thể ở
một cõi nào đó. Nếu con kiến muốn đi từ đầu giấy
đến cuối, nó phải bò suốt chiều dài tấm giấy.
Ðối với chúng ta, vì biết chiều đo thứ ba, ta có
thể gấp tờ giấy lại để hai góc tờ giấy chạm vào
nhau, con kiến chỉ cần nhúc nhích đã đi đến cuối
tờ giấy. Nó không thể hiểu tại sao quãng đường
dài bỗng biến mất, dĩ nhiên đối với ta việc này
đâu có gì lạ. Vấn đề này có thể dùng để diễn tả
thuật "Rút đất" của các Lạt Ma Tây Tạng. Một
khi đã hiểu chiều đo thứ tư, mọi hiện tượng cõi
âm đều có thể giải thích hết sức dễ dàng, khoa
học.
Phái
đoàn nhìn nhau thán phục vị pháp sư Ai Cập đã
diễn tả một ý niệm phức tạp bằng một thí dụ giản
dị, dễ hiểu. Nhưng còn bề đo thứ tư?
Hamoud mỉm cười:
- Các
ông đều biết đường thẳng được tạo ra bởi một
điểm kéo dài theo một chiều nhất định. Nếu ta di
chuyển một cái chấm khoảng 2 thước thì ta có
đường thẳng dài 2 thước. Nếu ta tiếp tục di
chuyển chấm ấy một khoảng cách 2 thước nhưng
thẳng góc với đường cũ cho đến khi trở về khởi
điểm thì ta sẽ có một hình vuông có đúng không?
Hình vuông có thể diễn tả bằng con số 2 bình
phương theo toán học. Ðây là hình học mặt phẳng
chứ không có gì lạ. Nếu ta tiếp tục di chuyển
theo chiều đứng, thẳng góc với hình vuông cũ thì
ta sẽ có một khối vuông (Cubic). Khối vuông có
thể diễn tả bằng con số 2 tam thừa. Tóm lại ta
có 3 hình: đường thẳng, hình vuông và khối vuông
tương ứng với số 2, 2 bình phương, 2 tam thừa.
Hình
học không gian ngừng ở đây, không đi xa nữa vì
ta chỉ biết có 3 chiều mà thôi, nhưng toán học
cho biết có thể có 2 tứ thừa, 2 lũy thừa năm, 2
lũy thừa sáu và nhiều nữa. Các
con số toán học này đều có hình tương ứng trên
phương diện hình học và tương ứng với 2 lũy thừa
bốn hay bề đo thứ tư, là chìa khóa vào cõi âm.
Khoa Hình học cổ của Ai Cập không những chứng
minh được mà còn có các dụng cụ để đo lường
chiều thứ tư này. Trở về hình học phẳng, ta sử
dụng thước kẻ để đo chiều dài. Ðể đo hình vuông
ta sử dụng một thước khác gọi là thước vuông vì
loại thước kẻ không thể đo góc vuông được. Cũng
thế khi bước sang hình học không gian ta không
thể dùng thước vuông vì hình vuông theo định
nghĩa không có bề đứng, không thể đo hình khối
được. Nếu di chuyển hình khối theo chiều đo thứ
tư ta sẽ có hình gì? Dĩ nhiên ta không tưởng
tượng được. Hình học Ai Cập cho biết nó là một
hình bốn bề, có 16 góc, 32 cạnh và 24 mặt được
giới hạn bởi 8 hình khối (Hình khối chỉ có 6 mặt
12 cạnh và 8 góc). Ngày nào khoa học chứng minh
được hình này là họ mở cửa vào được chiều đo thứ
tư. Toán học cho biết 2 lũy thừa bốn rất dễ
chứng minh và từ toán học áp dụng để xây Kim Tự
Tháp, đem các tảng đá vạn cân lên cao. Môn
học này đã thất truyền trong quá khứ, nhưng di
tích của nó vẫn được ghi khắc trên những biểu
tượng tại Kim Tự Tháp đấy chứ.
Hamoud im lặng như thả hồn vào một ký ức xa xăm
rồi nói tiếp:
- Khi
vén màn vào chiều đo thứ tư, sự phát minh khoa
học ngày nay chỉ là mảnh vụn, không đáng kể. Con
người có thể du lịch khắp không gian và có quyền
năng ngoài sự hiểu biết của người hiện tại.
Trong thời buổi vàng son, dân Ai Cập đã đi khắp
không gian, đến những giải ngân hà xa lạ, nhưng
tiếc thay sự giao tiếp với cõi âm của chiều đo
thứ tư đem lại các hiểm nguy mà họ không biết.
Chính vì thế nền văn minh này đã sụp đổ, biến
mất trên mặt địa cầu chỉ vì thiếu một nền tảng
trí tuệ sáng suốt, không biết phân biệt chân
giả. Từ ngàn xưa, các bậc trưởng lão đã nhắn nhủ
rằng sự tiến bộ phải song song với trí tuệ và
chỉ khi trí tuệ khai mở con người mới đủ khả
năng phân biệt hư thực, xé bỏ các mê lầm của vô
minh. Tiếc thay các nhà lãnh đạo Ai Cập không
nhận thức điều này nên mới xảy ra những điều
đáng tiếc.
- Ông
muốn nói rằng dân Ai Cập đã tiến bộ như vậy sao?
- Dĩ
nhiên, khoảng
8 ngàn năm trước họ đã ở những xã hội hơn hẳn
những xã hội tân tiến, văn minh nhất bây giờ,
bằng cớ là ngày nay, đã ai xây nổi Kim Tự Tháp
chưa? Còn nhiều vấn đề thần bí khác mà một ngày
nào đó các ông sẽ hiểu.
Này
các ông bạn, Ai Cập đã để lại những Kim Tự Tháp
hùng vĩ, kiến thức vĩ đại vào mục đích gì? Ða số
người Âu cho rằng đó là một tàng trữ thi hài
những vua Pharaoh, có như vậy chăng? Tại sao
triều đại Pharaoh có cả trăm vua chúa mà chỉ có
vài vị cho xây Kim Tự Tháp? Nhưng người ta đâu
có tìm thấy thi thể vua chúa nào trong Kim Tự
Tháp đâu? Hơn nữa, trong Kim Tự Tháp làm gì có
ám tự hay tranh ảnh nói về một cá nhân ông vua
nào đâu? Chỉ có những nấm mồ đào được chôn sâu
dưới đất mới có các xác ướp và tranh vẽ thôi,
điều này thế nào? Tại sao các nấm mồ trong lòng
đất có khắc ký hiệu, ám tự, hình vẽ mà trong Kim
Tự Tháp lại trống trơn? Dĩ nhiên quan niệm thông
thường không thể hiểu nổi, nếu
các ông hiểu chiều đo thứ tư thì các ông sẽ
không nhìn Kim Tự Tháp như một hình khối ba
chiều.
- Ông
muốn nói là nó còn chiều đo nữa hay sao?
-
Ðúng thế, nhưng đó là bí mật của Kim Tự Tháp,
đây không phải một vấn đề ta có thể đem ra bàn
luận trong một thời gian giới hạn. Các ông đang
muốn chứng minh về thế giới vô hình kia mà. Tôi
hy vọng dẫn chứng về Toán học vừa qua sẽ giúp
các ông một chìa khóa, một căn bản mới trong
tiến trình nghiên cứu...
Giáo
sư Evans-Wentz rụt rè:
-
Nhưng chúng tôi vẫn chưa có bằng chứng nào rằng
sự chết không phải là chấm dứt...
Hamoud bật cười:
- Từ
bao lâu nay, chết vẫn là một điều mơ hồ, đáng sợ
ám ảnh mọi người. Dù
ai cũng trước sau phải chết nhưng hầu như tất cả
đều cố gắng không nghĩ đến nó. Ngay cả
những người già yếu, liệt giường, liệt chiếu,
đầy bệnh hoạn đớn đau cũng hãi hùng khi giáp mặt
tử thần. Tất cả tựu chung vì họ không hiểu sự
chết, không biết chuẩn bị, không biết đối đầu
hay chấp nhận nó. Trong
cuộc đời đầy dẫy vô thường, sự chết có thể đến
bất cứ lúc nào, thế mà con người cứ lẩn tránh nó
như khất nợ vậy. Sự hiểu biết về cõi vô hình
giúp ta chấp nhận sự thật hiển nhiên này.
Hãy đặt câu hỏi nếu sự chết là hết thì cuộc đời
có ý nghĩa gì? Tại sao ta lại sinh ra đời, có
mặt trên trái đất này? Tại sao có sự khác biệt
giữa các cá nhân dù cùng huyết thống, điều kiện
sinh sống, có kẻ khôn, người dại, kẻ thông minh
tuyệt đỉnh, người ngu xuẩn khù khờ? Từ chối sự
chết là từ chối một sự thật, tại
sao ta cứ phải trốn tránh một sự thật? Tại
sao không tìm hiểu nó và chuẩn bị khi nó đến có
hơn không?
-
Phải chuẩn bị như thế nào? Làm sao có thể giải
thích cho những người Âu vốn hết sức đa nghi và
không chấp nhận những gì viển vông rằng có một
đời sống khác bên kia cửa tử?
- Thì
đó là việc của họ, tin tưởng hay phủ nhận hoàn
toàn tùy theo cá nhân, việc gì các ông cứ phải
thắc mắc về vấn đề giải thích. Ðiều quan trọng
là tự các ông có tin hay không mà thôi. Nếu các
ông tin rằng sự
chết chỉ là việc cởi bỏ một cái áo cũ, khi còn
sống ra sao thì khi chết cũng thế thôi,
vấn đề thiên thần trên thiên đường hay ác quỷ
dưới địa ngục hoàn toàn vô lý, thì mọi việc sẽ
khác hẳn. Nếu nói một cách hết sức khoa học, lý
luận, thì tùy
theo dục vọng, tư tưởng của con người ra sao mà
họ đến những cõi giới tương ứng, ta sẽ
thấy rõ rằng con người có toàn quyền định đoạt
số phận của họ khi sống cũng như khi chết. Ðó
không phải là một vinh dự lớn cho loài người hay
sao? Nếu ta chấp nhận rằng các dục vọng tư tưởng
khi còn sống tạo ra sẽ bay vẩn vơ tác động lên
vong linh cho đến khi sinh lực chúng hao mòn,
tan rã thì ta thấy vấn
đề chuẩn bị tư tưởng cũng như lối sống hết sức
cần thiết, quan trọng. Nếu
các tư tưởng này hoàn toàn nhắm về vật chất thì
dĩ nhiên hoàn cảnh cá nhân hết sức bi đát vì
vong linh không còn thỏa mãn chúng được nữa.
Vong linh sẽ đau khổ và sẽ học được bài học về
sự chế ngự dục vọng để áp dụng trong một kiếp
sống tương lai. Dĩ
nhiên khi dục vọng trên tiêu tan hết thì y mới
siêu thoát được.
Nếu
trong đời sống hàng ngày, con người không có một
đời sống tinh thần thì khi chết họ sẽ ở một cảnh
giới hết sức buồn nản, vô tri bất động rất lâu
cho đến khi họ ý thức sự thiếu hoạt động này và
có những tâm nguyện hăng hái hơn ở một kiếp
khác. Thảm kịch lớn nhất là khi con người chết
đột ngột, không chấp nhận rằng mình đã chết nên
cố gắng bám lấy sự sống. Vì không chấp nhận rằng
mình đã chết nên họ cứ ở nguyên tình trạng khi
còn sống nghĩa là tình trạng chuyển tiếp, không
có gì rõ ràng hết. Hồn
ở cõi âm nhưng đầu óc tư tưởng vẫn ở cõi trần,
họ cần được hướng dẫn, khuyên bảo.
Hãy
lấy trường hợp một vong linh chết đuối, vì y
không tin mình đã chết nên cứ ở trong trình
trạng lúc chết nghĩa là ngộp nước. Vì đầu óc hôn
mê nên y không nhìn thấy cõi âm mà giữ nguyên
hình ảnh cõi trần, dĩ nhiên nó chỉ nằm trong tư
tưởng của y mà thôi. Nói một cách khác, thời
gian như ngừng lại, y cứ thế hôn mê trong nhiều
năm. Tôi đã cố gắng thuyết phục nhưng nói gì y
cũng không nghe, tôi bèn yêu cầu y trở về nhà,
đầu óc y hôn mê quá rồi nên cũng không sao trở
về được. Nhờ các bạn bè cõi vô hình, tôi tìm
được tên tuổi và địa chỉ thân nhân vong linh.
Tôi tiếp xúc với họ và yêu cầu lập một nghi lễ
cầu siêu để cảnh tỉnh vong linh. Nhờ
sức chú nguyện mãnh lực của buổi cầu siêu, tôi
thấy vong linh từ từ tỉnh táo ra, nghe được lời
kinh. Y trở về nhà và chứng kiến buổi
cầu siêu của con cháu gần 60 năm sau khi y qua
đời. Sau
đó y chấp nhận việc mình đã chết và siêu thoát...
- Ông
cho rằng sự cầu nguyện có lợi ích đến thế sao?
- Cầu
siêu cho vong linh là một điều hết sức quan
trọng và ích lợi vì nó chứa đựng một sức mạnh tư
tưởng vô cùng mãnh liệt. Oai lực lời kinh và âm
hưởng của nó thật là vô cùng ở cõi âm, nếu người
ta tụng niệm chú tâm, sử dụng hết cả tinh thần.
Tiếc thay, người đời chỉ coi tụng niệm như một
hình thức. Họ chỉ biết đọc các câu kinh
trên đầu môi, chót lưỡi chứ không biết tập trung
tinh thần nên mất đi phần nào hiệu nghiệm. Sự
cầu nguyện có một sức mạnh kinh khủng,
có thể dời núi lấp sông, đó là bí quyết khoa Mật
Tông Tây Tạng.
- Như
ông nói thì tôn giáo Tây Tạng có hiệu nghiệm
nhiều hay sao?
- Vấn
đề cầu nguyện cho người chết không
phân biệt tôn giáo và cũng không cần theo một
nghi thức, nghi lễ nào nhất định mà chỉ cần tập
trung tư tưởng, hết sức chú tâm cầu nguyện.
Theo sự hiểu biết của tôi thì tôn giáo nào cũng
có những nghi lễ riêng và nghi lễ nào cũng tốt
nếu người thực hành thành tâm.
- Như
vậy nghi lễ rửa tội trước khi chết có ích lợi gì
không?
- Một
số người tin rằng hạnh phúc vĩnh cửu của con
người tùy thuộc tâm trạng y lúc từ trần. Nếu lúc
đó y tin rằng mình được cứu rỗi thì như được một
vé phi cơ lên Thiên đàng, còn không y sẽ xuống
địa ngục. Ðiều
này gây nhiều sợ hãi, lo âu vô ích. Nếu
một người chết thình lình thì sao? Phải chăng họ
sẽ xuống địa ngục? Nếu một tín đồ hết sức ngoan
đạo nhưng chết ngoài trận mạc thì sao? Họ đâu
được hưởng nghi lễ rửa tội? Sự
chuẩn bị hữu hiệu nhất là có một đời sống thanh
cao, nếu ta đã có một đời sống cao đẹp thì tâm
trạng khi chết không quan trọng. Trái
lại, ta không thể ao ước một tương lai tốt đẹp
dù khi chết được cử hành bằng các nghi lễ to
lớn, linh đình nhất. Dù sao, tư tưởng chót trước
khi lìa đời cũng rất hữu ích cho cuộc sống mới
bên kia cửa tử, nó giúp vong linh tỉnh táo, dễ
thích hợp với hoàn cảnh mới hơn. Một cái chết
thoải mái, ung dung phải hơn một cái chết quằn
quại, chết không nhắm mắt được. Theo tôi thì sự
hiểu biết về cõi vô hình, sự chuẩn bị cho sự
chết là điều hết sức quan trọng, cần được phổ
biến rộng rãi, nhưng tiếc là ít ai chú ý đến
việc này.
- Vậy
theo ông chúng ta cần có thái độ gì?
- Ðối
với người Âu Tây, đời sống bắt đầu khi lọt lòng
mẹ và chấm dứt lúc chết, đó là một quan niệm cần
thay đổi. Ðời
sống cõi trần chỉ là một phần nhỏ của chu kỳ
kiếp sống. Chu kỳ này được biểu hiện
bằng một vòng tròn mà sự sống và chết là những
nhịp cầu chuyển tiếp giữa hai cõi âm và dương,
giữa thế giới hữu hình và vô hình. Trên con
đường tiến hóa còn hằng hà sa số các chu kỳ, các
kiếp sống cho mỗi cá nhân. Linh hồn từ cõi
Thượng giới chuyển kiếp xuống cõi Hạ giới qua
cõi Trung giới, và sau đó trở về Thượng giới
cũng phải qua cõi Trung giới. Phần ở cõi trần
chỉ là một phần nhỏ của một kiếp sống mà thôi. Trong
chu kỳ này phần quan trọng ở chỗ vòng tròn tiến
sâu vào cõi trần và bắt đầu chuyển ngược trở
lên, đó là lúc linh hồn hết tha thiết với vật
chất mà có ý hướng về tâm linh. Các cổ
thư đã vạch ra một đời sống ở cõi trần như sau:
25 năm đầu để học hỏi; 25 năm sau để lo cho gia
đình, đây là giai đoạn tiến sâu vào trần thế; 25
năm sau nữa phải từ bỏ việc đời để lo cho tâm
linh, đó là thời điểm quan trọng để đi ngược
lên, hướng về tâm linh; và 25 năm chót
phải từ bỏ tất cả, chỉ tham thiền, quán tưởng ở
nơi rừng sâu, núi thẳm. Ðối với người Á châu thì
50 tuổi là lúc từ bỏ vật chất để hướng về tâm
linh nhưng người Âu châu lại khác hẳn, họ
ham mê làm việc đến độ mù quáng, cho đến già vẫn
tranh đấu hết sức vất vả cho dục vọng, cho bản
ngã, cho sự sống còn, cho sự thụ hưởng.
Do đó, đa số mất quân bình và khi chết hay gặp
các nghịch cảnh không tốt. Theo ý tôi, chính
vì sự thiếu hiểu biết về cõi âm nên con người
gây nhiều tai hại ở cõi trần. Chính vì
không nhìn rõ mọi sự một cách tổng quát, nên họ
mới gây lầm lỗi, chứ nếu biết tỷ lệ đời sống cõi
trần đối với toàn kiếp người, thì không ai dồn
sức để lo cho 1/3 kiếp sống mà sao lãng các cõi
trên. Nếu con người hiểu rằng quãng đời ở cõi
trần rất ngắn ngủi đối với trọn kiếp người, và
đời sống các cõi khác còn gần với chân
lý, sự thật hơn thì
có thể họ đã hành động khác đi chăng? Có
lẽ vì quá tin tưởng vào giác quan phàm tục nên
đa số coi thế giới hư ảo này là thật và cõi khác
là không có thật...
-
Nhưng nếu ông cho rằng các cõi kia còn gần với
sự thật hơn thì tại sao ta lại kéo lê kiếp sống
thừa ở cõi trần làm gì? Tại sao không rủ nhau đi
sang cõi khác có tốt hơn không?
Hamoud mỉm cười:
- Tuy
cõi trần hư ảo nhưng nó có những lợi ích của nó
vì con người chỉ có thể tìm hiểu, phát triển
xuyên qua các rung động thô thiển này thôi. Cõi
trần có các bài học mà ta không tìm thấy ở đâu
được. Chính các bậc Chân tiên, Bồ tát
trước khi đắc quả vị đều phải chuyển kiếp xuống
trần, làm các công việc vĩ đại như một thử thách
cuối cùng. Muốn khai mở quyền năng, con người
phải tiếp nhận các bài học ở cõi trần mà thôi,
nhờ học hỏi những bài học này họ mới trở nên
nhạy cảm với các rung động cõi trên.
- Ông
muốn nói sự nhạy cảm thế nào?
- Sự
mở mang trí tuệ giống như một máy thu thanh
(Radio) và các rung động ví như các tần sóng.
Một người không hiểu biết ví như máy thu thanh
không bắt trúng đài, không thay đổi băng tần. Họ
sinh ra sao thì chết cũng vậy, chả học được điều
gì vì như máy không bắt trúng đài chỉ kêu rè rè.
Một người hiểu biết là người biết thay đổi con
người của mình để bắt trúng những làn sóng, dĩ
nhiên có nhiều làn sóng, băng tầng khác nhau và
con người sẽ bị tràn ngập bởi các làn sóng này
cho đến khi họ điều hòa, phân biệt điều hay, lẽ
dở để chọn những băng tầng thích hợp. Khi đó họ
bắt trúng những đài phát thanh, nghe được điệu
nhạc họ muốn. Huyền
âm của Thượng Ðế lúc nào cũng vang lừng vũ trụ
cho những ai muốn nghe, biết chuyển tâm thức để
nghe, biết thay đổi tâm hồn để bắt được làn sóng
thanh cao, tế nhị đó.
Mọi
người gật đầu thán phục vị pháp sư Ai Cập đã
dùng những thí dụ cụ thể để giải thích một điều
phức tạp. Giáo sư Mortimer thắc mắc:
-
Ngoài việc khai mở giác quan để nghiên cứu cõi
âm, ông còn làm gì nữa?
-
Việc nghiên cứu sẽ không có ý nghĩa gì nếu ta
chỉ quan sát như một khách bàng quang, đứng
ngoài nhìn ngắm. Con người cần học hỏi những
điều gì xảy ra khi họ từ trần để thay đổi, thích
hợp với cuộc sống mới, không
những cho họ mà còn cho những người khác.
Càng hiểu biết bên kia cửa tử họ càng dễ dàng
hướng dẫn các vong linh khác.
- Nói
một cách khác ông hay giúp đỡ những vong linh
vừa từ trần?
-
Chính thế, đó là công việc của tôi. Phần
lớn người chết thường xúc động và không chấp
nhận rằng họ đã chết, họ muốn bám víu lấy cõi
trần và trở nên các loài ma vất vưởng.
Công việc của tôi là trấn an họ, giải thích cho
họ rằng ở cõi âm nếu muốn siêu thoát cần thay
đổi trọn vẹn lối sống. Việc này dĩ nhiên rất khó
vì các vong linh không chịu nghe, hơn nữa nhiều
người luyến tiếc cõi trần vì họ có những việc
chưa giải quyết xong, tâm hồn họ chưa được an để
siêu thoát. Vì thế sự hiện diện của một người
còn sống như tôi rất hữu ích, tôi có thể giúp họ
hoàn tất các tâm nguyện để họ siêu thoát...
-
Công việc này có kết quả gì không?
- Ðây
là một việc hết sức khó khăn nên tôi phải kết
thân với một số bạn bè bên cõi âm. Nếu vong linh
u mê nhất định không nghe thì tôi phải nhờ những
bạn bè, người thân của họ thuyết phục, giúp đỡ.
Thí dụ như một vong linh bị chết trong một trận
hỏa hoạn tại Luân Ðôn. Y bị kẹt trong tòa nhà ba
từng, không sao thoát nên chết ngộp bởi khói. Y
không tin mình đã chết nên thần thức vẫn vùng
vẫy, tìm chỗ thoát thân. Tôi khuyên bảo nhưng y
quá lo sợ chết cháy nên không chịu tin lời tôi.
Sau tôi phải
nhờ mẹ y đã từ trần nhiều năm trước đến khuyên
bảo thì y mới chấp nhận và siêu thoát.
- Ông
muốn nói rằng thân quyến có thể làm việc đó dù
họ chết đã lâu?
- Dĩ
nhiên, sự liên hệ giữa con người với nhau đâu
phải tình cờ mà do nhiều duyên nghiệp từ trước.
Nếu sợi dây thân ái vẫn còn thì dù qua đời họ
vẫn để ý lưu tâm đến những người họ yêu mến
nhau. Dù
đã siêu thoát lên cảnh giới trên nhưng họ vẫn
sẵn sàng trở lại khuyên bảo, giúp đỡ con cháu
của họ.
- Như
vậy sau khi chết ta có thể gặp lại cha mẹ, ông
bà, họ hàng thân thích hay sao?
- Dĩ
nhiên, như tôi vẫn nói con người khi sống ra sao
thì chết vẫn vậy, đâu có đổi thay gì nhiều. Nếu
tình cảm vẫn còn thì họ vẫn tìm đến gặp nhau là
thường. Thật ra nếu
ta xem sự chết như đi du lịch qua một thế giới
mới, quang đãng, sáng sủa hơn thì chúng ta sẽ
không có cảm tưởng như xa người quá cố.
Sự thật là không có điều gì chia cách linh hồn
cả, khi ta yêu mến ai bằng những rung động chân
thành, ta yêu mến họ qua linh hồn của họ chứ đâu
phải chỉ xác thân. Xác tuy hư hoại nhưng hồn họ
vẫn ở quanh ta, tuy
ta không thấy họ nhưng họ vẫn cảm xúc được tình
thương của ta. Họ còn biết các đau
buồn, cảm giác của ta vì họ đọc được tư tưởng.
Dĩ nhiên, nếu họ vẫn theo dõi thì khi ta chết
đi, họ sẽ đón tiếp để trấn an ta là đằng khác.
Ðây là một vấn đề cần được lãnh hội cẩn thận vì
khi hiểu biết ta sẽ không còn sợ hãi, ta chấp
nhận sự chết như một việc hiển nhiên. Bên
kia cửa tử cũng như cõi trần, luật thiên nhiên
luôn luôn biểu hiện và hết sức công bằng.
- Làm
sao chúng tôi có thể biết chắc rằng khi chết ta
sẽ gặp người thân?
- Như
tôi đã trình bày, có bảy cảnh ở cõi Trung giới
và sự thức tỉnh ở cảnh nào hoàn toàn tùy theo
tâm thức con người rung động với nhịp rung của
cảnh đó. Con
người chỉ có thể tiếp xúc với vong linh ở cảnh
đó hoặc cảnh thấp hơn mà thôi. Ða số
những người qua đời đã lâu, thể Vía đã được
thanh lọc nên thường sống ở cảnh giới cao hơn,
do đó họ có thể tiếp xúc với những người ở cảnh
giới thấp hơn nếu họ muốn. Ngược lại những kẻ
thức tỉnh ở cảnh giới thấp rất ít khi biết đến
các cảnh giới cao hơn, những kẻ thức tỉnh ở cảnh
thứ bảy hay thứ sáu chỉ muốn tìm về cõi trần mà
thôi, ít khi ý thức cảnh giới khác. Có
nhiều vong linh sau khi đã lên đến cảnh giới cao
lại tìm về những cảnh thấp hơn, không phải họ
ham mê gì cõi này nhưng vì lòng thương người,
vì bác ái mà họ muốn giúp đỡ những người cùng
cảnh ngộ, những kẻ lạc lỏng, bơ vơ không ý thức
gì.
Hamoud im lặng một lúc rồi thong thả:
- Cứu
trợ, giúp đỡ các vong linh bên kia cửa tử là một
điều hết sức cần thiết, vì người chết thì nhiều
mà người hiểu biết lại chẳng có là bao nhiêu...
-
Nhưng đâu phải ai cũng làm được việc này, phải
có các quang năng đặc biệt như ông hay đợi lúc
chết mới giúp đỡ được chứ...
Hamoud lắc đầu:
-
Không phải khi từ trần mới làm được việc này,
khi còn sống ta vẫn có thể làm được mà, cũng
không cần phải khai mở quang năng nào cả. Bất cứ
ai biết suy nghĩ đều có thể làm được. Các ông
nên hiểu rằng khi ngủ, thể Vía của ta được tự do
có thể hoạt động bên cõi âm. Nếu
ta tập trung tư tưởng trước khi ngủ vào một sự
giúp đỡ, an ủi nhằm mục đích hướng dẫn, cứu trợ
tất cả mọi người không phân biệt, thì
điều này sẽ được thực hiện.
(…..)
---
(Toàn
tập Hành Trình Về Phương Đông có ở Thư viện
4phuong.net).
----------
10)
HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC CHO NGƯỜI QUÁ CỐ
(Tác
giả: K. Sri Dhammananda)
Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC CHO NGƯỜI
QUÁ CỐ
Nếu
thực tình bạn muốn tôn kính và giúp đỡ người quá
cố, bạn hãy hành những hành vi công đức dưới
danh nghĩa của những người ấy, và hồi hướng
phước báu đến cho họ.
Theo
Phật Giáo, hành vi thiện hay "hành động công
đức" mang hạnh phúc cho hành giả ngay trong thế
giới này và sau này. Chúng ta tin rằng hành động
công đức chắc chắn dẫn đến mục tiêu cuối cùng là
hạnh phúc trường cửu. Hành
động công đức có thể thực thi qua thân, khẩu và
ý. Mọi
hành động thiện đều tạo công đức sẽ tích lữy vào
thiện nghiệp của hành giả. Phật
Giáo cũng dạy công đức tạo được có thể hồi hướng
cho người khác hay có thể chia sẻ với người
khác. Nói
một cách khác, công đức có thể "chuyển hoán" và
có thể chia sẻ với người khác. Người nhận được
công đức có thể đang sống hay đã chết.
Phương pháp hồi hướng công đức rất đơn giản.
Trước tiên ta phải thực hiện một số công đức.
Người làm công đức chỉ mong muốn phước báu đã
tạo dành đặc biệt cho
người nào đó, hay cho "tất cả chúng sanh". Phúc
nguyện này có thể được niệm thầm trong tâm hoặc
diễn tả bằng lời.
Tâm
nguyện khi thể hiện này có khả năng được cảm ứng
bởi người thọ nhận. Khi người thọ nhận hay biết
được hành động hay nguyện ước này, thì sẽ cùng
nhau phát khởi một niềm hoan hỉ. Nơi đây, người
thọ nhận trở thành một người tham gia hành vi
nguyên thủy bằng cách tự liên kết với công đức
đã làm. Nếu người thọ nhận tự đồng hóa với cả
hành vi lẫn hành giả, đôi khi có thể đạt được
công đức to lớn hơn hành giả nguyên thủy, vì tâm
hoan hỉ của người ấy lớn hơn, hay vì nhận thức
được giá trị của công đức này căn cứ trên sự
hiểu biết Phật pháp và, do vậy hưởng nhiều phước
báu hơn. Kinh điển Phật Giáo chứa nhiều câu
truyện về truờng hợp này.
Niềm
vui hồi hướng phước báu cũng có thể sanh khởi dù
người làm công đức có kiến thức hay không. Điều
cần thiết phải làm là cốt cho người thọ nhận cảm
thấy hân hoan trong tâm khi nhận biết được nghĩa
cử này. Nếu mong muốn, người đó có thể bày tỏ
niềm vui bằng cách nói lên chữ "Sadhu" có nghĩa
là "Lành thay". Đó là cách bày tỏ sự tán thán
bằng ý hoặc bằng lời. Để chia sẻ công đức do
người khác làm, điều quan trọng là phải có sự
chấp thuận thật sự, và niềm hoan hỉ phát sanh từ
tâm người thọ nhận.
Ngay
cả khi mong muốn được như vậy, người làm công
đức không thể ngăn người khác chia vui với công
đức mình, vì không có quyền gì đối với tư tưởng
của người khác. Theo
Đức Phật, trong tất cả mọi hành động, tư tuởng
mới là điều thực sự quan trọng. Hồi hướng công
đức căn bản là một hành động của tâm.
Hồi
hướng công đức không có nghĩa là cho hết phước
báu mà mình đạt được khi làm việc thiện. Trái
lại, hành động của hồi hướng công đức chính nó
là một công đức làm phước báu đã tạo càng được
tăng thêm nữa.
TẶNG PHẨM CAO CẢ NHẤT CHO NGƯỜI QUÁ VÃNG
Đức
Phật nói rằng tặng phẩm tốt đẹp nhất cho thân
nhân đã quá vãng là làm công đức và hồi hướng
phước báu vừa tạo này đến họ. Ngài cũng nói là
những ai hành hạnh hồi hướng cũng nhận những
được quả phước của những công đức mình làm. Đức
Phật khuyến khích những ai làm việc thiện chẳng
hạn như cúng dường cho các bậc thánh thiện, hãy
hồi hướng phước báu đó đến những người thân đã
qua đời. Hãy nên cúng dường với danh nghĩa người
quá cố bằng cách hồi tưởng lại trong tâm những
điều như: Khi vị ấy còn sống, vị ấy đã cho tôi
của cải này, vị ấy đã làm cho tôi những việc
này, vị ấy là thân nhân của tôi, là người bầu
bạn với tôi vân vân... (Tirokudda Sutta -
Khudakapatha). Không
nên khóc lóc, đau buồn, than van và nuối tiếc;
những thái độ như vậy không đem lợi ích gì cho
người đã chết.
Hồi
hướng công đức đến các hương linh được căn cứ
trên sự tin tưởng thông thường là khi một người
chết đi, phước và tội được đem cân nhắc và hành
động của người ấy sẽ định đoạt người ấy tái sanh
vào một cảnh giới sung sướng hay thống khổ nào.
Hoặc tin là các nguời chết có thể xuống cảnh
giới của các vong linh không siêu thoát. Những
chúng sanh trong những hình thái thấp kém này
không thể tạo được phước đức mới, và phải sống
nhờ vào những công đức tạo được từ trên thế gian
này.
Những
ai không làm hại người khác, và hành các hạnh
thiện lành trong đời mình, chắc chắn có cơ may
tái sanh vào nơi nhàn cảnh. Những
người như vậy không cần đến sự giúp đỡ của thân
nhân hiện tiền. Tuy nhiên, với những người không
có cơ duyên để được sanh vào cảnh giới sung
sướng, luôn luôn chờ đợi các công đức của những
thân nhân đang sống để bù đắp những thiếu hụt và
giúp họ có thể tái sanh vào một nơi tốt đẹp hơn.
Những
người tái sanh dưới hình thái ma quỷ bất hạnh có
thể giải thoát được khổ cảnh nhờ sự hồi hướng
phước báu do công đức được tạo của bè bạn và
thân nhân.
Lời
dạy về hồi hướng công đức đến người quá cố là
thể thức tương ứng với tập tục Ấn Độ Giáo đã
truyền thừa qua các thời đại. Nhiều nghi lễ được
cử hành để vong linh các tổ tiên được sống trong
bình an. Tập tục này đã có một ảnh hưởng to lớn
vào đời sống xã hội của một số quốc gia Phật
giáo. Người
chết bao giờ cũng được nhớ đến khi ta hoàn tất
bất cứ một công việc phước thiện nào, và vào các
dịp liên quan đến đời sống của họ, như những
ngày sanh hay ngày giỗ. Vào
những dịp như vậy, ta thưòng cử hành một vài
nghi lễ. Người hồi hướng công đức rót nước từ
một cái bình đến một bình khác tương tự, trong
khi đọc một câu kệ bằng tiếng Pali được dịch như
sau :
Như
con sông, khi đầy phải chảy
đem nước tràn đến tận nơi xa
Cũng như vậy, điều được nơi đây
sẽ đem phước đến vong linh tại đấy
Như nước nguồn rót từ ngọn núi
chảy xuống và dâng ngập cánh đồng
Cũng như vậy điều được nơi đây
sẽ đem phước đến vong linh tại đấy.
(Kinh Nidhikanda trong Khuddakapatha)
Nguồn
gốc và ý nghĩa việc hồi hướng công đức được các
học giả đem ra bàn cãi. Mặc dầu tập tục cổ xưa
này còn hiện hữu đến ngày nay tại nhiều quốc gia
Phật Giáo, một số rất ít Phật tử theo tập tục cổ
xưa này hiểu được ý nghĩa của việc hồi hướng
công đức và cách thức thích đáng để thi hành.
Nhiều
người đã phí phạm thì giờ và tiền bạc vào những
lễ nghi và trình diễn vô nghĩa để tưởng niệm
người đã qua đời. Họ không hiểu là không thể nào
giúp đỡ được người chết đơn giản bằng cách xây
dựng mộ phần, mộ chí và nhà táng to lớn và những
đồ tế nhuyễn khác. Cũng chẳng có thể giúp đỡ
được người chết bằng cách đốt hương, vàng mã,
vân vân...; và cũng chẳng thể giúp đỡ người chết
bằng cách giết các súc vật và đem các loại thực
phẩm khác để dâng cúng.Ta cũng không nên phí phạm đem đốt các vật dụng của người chết cho
rằng họ sẽ được hưởng do hành động này, đáng ra
các vật dụng này nên đem phân phát cho những
người nghèo khó.
Cách
duy nhất để giúp đỡ người chết là làm một số
công đức theo đúng cách thức đạo giáo để tưởng
nhớ đến họ. Công đức gồm có những hạnh lành như
bố thí, xây trường học, tự viện, cô nhi viện,
thư viện, bệnh viện, ấn tống kinh sách để tặng,
và các công việc từ thiện tương tự.
Tín
đồ của Đức Phật nên hành động khôn ngoan và
không nên mù quáng làm theo bất cứ điều gì. Trong
khi những người khác cầu nguyện thánh thần cho
người chết thì người Phật tử trải tâm từ ái trực
tiếp đến họ. Bằng
cách làm những việc thiện, họ có thể hồi hướng
công đức này đến người yêu quí để những người
này được hưởng lợi lạc. Đó là cách thức tốt nhất
để tưởng nhớ, để đem vinh dự thật sự và để khắc
ghi mãi mãi tên người đã khuất. Được hoan hỉ,
người quá cố sẽ đền đáp phúc lành lại cho những
thân quyến hiện tiền. Cho
nên bổn phận của thân quyến là tưởng nhớ đến
người đã ra đi bằng cách hồi hướng công đức, và
rải tâm từ ái trực tiếp đến họ.
Thích Tâm Quang (dịch)
(Nguồn: Phattuvietnam.net)
----------
11)
CHỨNG NGHIỆM TÂM LINH CỦA NGÀI J. KRISHNAMURTI
(Trích trong Bút Hoa (nhật kí); dịch giả: Ẩn
Hạc).
(Jiddu Krishnamurti là một danh nhân giác ngộ
được Liên Hợp Quốc tôn vinh; được rất nhiều
người với đủ mọi thành phần xã hội - trong đó
có Ngài Đạt Lai Lạt Ma & Nhà khoa học danh
tiếng-giáo sư tiến sĩ vật lí David Bohm - ngưỡng
mộ).
*
Sống thì vượt ngoài thời gian, sống là hiện tiền
sinh động, nhưng hiện tiền này không lệ thuộc
vào thời gian. Sống là chú tâm, không nằm trong
biên cương của tư tưởng, trong giới hạn của cảm
thức. Từ ngữ dùng để thông tin và, cũng như hình
tượng, ngay chính chúng không có một ý nghĩa
nào. Cuộc đời luôn luôn là hiện tiền sinh động,
thời gian luôn luôn thuộc vào quá khứ, và vì thế
vào tương lai. Để cho thời gian (tâm lí) chết đi
tức là sống trong hiện tiền. Chính lối sống này
là bất tử, chứ không phải cách sống trong ý
thức. Thời gian là tư tưởng trong tâm thức, tâm
thức thì bị đóng khung. Mạng lưới của tư tưởng,
của cảm thức, luôn luôn hằn dấu sợ hãi, đau khổ.
Đau khổ sẽ chấm dứt khi thời gian chấm dứt.
*
Ngày hôm qua thật lạ lùng. “Bờ bên kia” thường
xuyên hiện diện suốt buổi đi dạo ngắn ngủi và
vào lúc nghỉ, lại càng mãnh liệt hơn trong khi
nói chuyện, duy trì, kéo dài gần hết đêm và vẫn
còn đó lúc thức dậy sáng nay, sau một giấc ngủ
ngắn. Thân thể mệt nhừ, cần được nghỉ ngơi, lại
trở nên yên tĩnh một cách lạ lùng, nhưng phần
nhỏ nhất của thân vẫn tỉnh táo và bén nhạy. (…)
Tâm là một cái gì kì lạ; tâm tàng chứa trí óc,
tư tưởng, tình cảm và cả đến mỗi cảm xúc tinh tế
nhất, ảo tưởng, tưởng tượng… Tâm không phải là
cộng chung hết cả những yếu tố trên, tuy nhiên
không có chúng thì tâm không có; tâm còn hơn hẳn
cái nó tàng chứa. Không có tâm thì những yếu tố
nó tàng chứa cũng không có nốt; chính qua tâm mà
chúng có mặt. (…).
(…)
Hoạt động của kí ức, kiến thức đang vận dụng,
xung đột của dục vọng đối chọi nhau, tìm cầu tự
do đều luôn luôn bị rào kín trong giới hạn của
trí óc; trí óc có thể thanh lọc, mở rộng, tích
lũy những ham muốn của nó, nhưng đau khổ sẽ tồn
tại. Khi mà tư tưởng chỉ là sự đáp trả của kí
ức, của kinh nghiệm, thì sẽ không chấm dứt được
đau khổ. Trí óc là một “suy tư” phát xuất từ cái
rỗng rang toàn vẹn của tâm; cái rỗng rang này
không có trung tâm do đó có khả năng hoạt động
vô hạn. Từ cái rỗng rang này sáng tạo sinh ra,
nhưng đó không phải là tài khéo của con người.
Sáng tạo phát sinh từ cái Không, và đó chính là
tình yêu và sự chết.
* Lại
thêm một ngày lạ lùng. Vào mọi lúc đều có mặt
“bờ bên kia”, dù đi đến đâu, làm việc gì. Trí
óc, rất yên tĩnh, không mê ngủ, nhưng tỉnh táo
và bén nhạy, hình như tự chuyển động trong chính
nó. Có cảm tưởng là quan sát từ một chiều sâu vô
hạn. Tuy nhọc mệt, thân vẫn thức tỉnh một cách
lạ lùng. Một ngọn lửa cháy sáng không dứt.
* Một
buổi sáng tuyệt vời; nhìn về hướng tây, phía bầu
trời một màu xanh thẫm, và mọi tư tưởng, mọi xúc
cảm đều tan biến; cái nhìn này xuất phát từ cái
rỗng không. Trước bình minh, thiền định là cửa
ngõ bao la vô tận vào cái bất tri (tâm rỗng rang
vô lượng). Không một thứ gì có thể mở cửa, ngoại
trừ hủy diệt toàn bộ cái hữu tri. Thiền định là
sự bùng nổ trong cái hiểu biết. Không phải là
hiểu biết nếu không tự tri; học hiểu để tự tri
không phải là tích lũy kiến thức; tích lũy sẽ
ngăn ngại tự tri, vì học hiểu không phải là tiến
trình gia tăng. Học hiểu cũng như hiểu biết,
được tiến hành từ sát-na này đến sát-na kia.
Tiến trình toàn thể này là sự bùng nổ trong
thiền định.
*
Thiền định không phải là nghiên cứu; không phải
là kiếm tìm, thăm dò, khai phá. Thiền định là
bùng nổ và khám phá. Không phải là trí óc bị ngự
trị bằng giới luật, cũng không phải tự phân tích
chính mình; thiền định chắc chắn không phải là
đào luyện để tập trung tư tưởng, tư tưởng len
vào trong sẽ chọn lựa và bác bỏ. Thiền định đến
một cách tự nhiên khi tất cả sự khẳng định và
thành đạt, hữu vi hoặc vô vi, đều được thấu
triệt và tự rơi rụng một cách dễ dàng. Thiền
định là trí óc rỗng rang hoàn toàn. Chính sự
rỗng rang đó mới là cốt yếu chứ không phải cái
tàng chứa trong trí óc. Chỉ từ sự rỗng rang đó
mới có thể có tuệ quán được. Đức hạnh phát xuất
từ đó, nhưng không phải là luân lí hoặc tư cách
đáng kính trong xã hội. Chính từ sự rỗng rang đó
phát sinh tình yêu, nếu không thì không phải là
tình yêu. Nền tảng của đức hạnh nằm trong sự
rỗng rang đó. Đây là chỗ bắt đầu và là nơi chấm
dứt mọi sự.
* Sự
hủy diệt tâm lí của mọi thứ đã có – và không chỉ
là thay đổi bên ngoài – là cốt tủy của trí thông
minh. Mọi hành động vô minh đều dẫn đến đau khổ,
rối loạn. Đau khổ là vô minh. Ngu si không phải
là thiếu kiến thức, mà là thiếu hiểu biết về
chính mình; không hiểu biết về chính mình thì
không một chút gì có trí tuệ. (…) Không có trí
tuệ nếu không có tự tri. Tự tri là một thực tại
sống động, không phải là phán đoán. Mọi tự phê
đều hàm ý tích lũy, lượng giá từ trung tâm của
kinh nghiệm và của kiến thức; chính quá khứ này
làm ngăn trở sự hiểu biết thực tại sống động.
Theo đuổi sự tự tri là một hành động thông
minh.
*
Sáng nay thức dậy, vượt trên tất cả thiền định,
tất cả tư tưởng và ảo tưởng phát sinh từ cảm
thức, ngay trung tâm của trí óc và xa hơn, ngay
tâm điểm của tâm thức, ngay chính bản thể của
con người, rực chiếu một luồng sáng cực mạnh
không mang một chút hình bóng, không bắt nguồn
từ một kích cỡ nào. Phép lành ở đó, bất động. Và
cùng với phép lành là thần lực vô cùng tận, và
một vẻ đẹp vượt trên tư tưởng, cảm thức.
* Tâm
thức nhân loại không thể dung chứa cái bao la
của sự an nhiên; tâm thức có thể tiếp nhận nhưng
không thể tìm kiếm, cũng như đào luyện cái bao
la an nhiên đó. Hết cả tâm thức đều phải vô tác,
không khởi dục vọng, không tìm cầu cũng như đuổi
bắt; chỉ lúc đó mới sinh khởi một cái gì không
chung không thủy. Thiền định chính là tâm thức
rỗng rang, không phải để tiếp nhận, mà để buông
bỏ. (…) Chỉ có thể có sáng tạo trong cái rỗng
rang.
*
Chiều hôm ấy nó đã ở đó, bỗng chốc tràn ngập
khắp phòng… Cảm giác mãnh liệt về chơn mĩ, sức
mạnh, vẻ dịu dàng. Những người khác đều nhận ra.
*
Hoạt động của trí óc được ấn định trước; suy
nghĩ, lí luận, nhưng trí óc hoạt động trong giới
hạn, giới hạn không gian và thời gian (tâm lí).
Vì vậy trí óc không thể trình bày, cũng không
thể hiểu biết cái chung, cái toàn thể. Cái toàn
thể đó là tâm; tâm thì rỗng rang, hoàn toàn rỗng
rang, và vì rỗng rang nên trí óc nằm trong
không-thời gian. Khi được thanh lọc ra khỏi sự
ước định về lòng khao khát, ham muốn, tham vọng,
trí óc mới có thể hội nhập cái toàn thể. Tình
yêu chính là sự toàn vẹn đó.
* Mỗi
một mưu đồ của tư tưởng đều phải được hiểu rõ.
Mọi tư tưởng đều là phản ứng, mọi ứng xử bắt
nguồn từ đó chỉ có nhấn mạnh thêm sự rối loạn và
xung đột.
*
Chắc chắn bản thể hiện diện suốt cả đêm; sáng
nay khi thức giấc, bản thể đã ở đó và hình như
tràn ngập toàn bộ đầu và thân. Và tiến trình
tiếp tục một cách êm dịu. Muốn được như thế,
phải một mình và tĩnh lặng.
* Có
một hướng không bắt đầu từ đâu và đi về cái rỗng
rang vô cùng, trụ xứ của bản thể vạn vật.
* Trí
óc trở nên ti tiện khi nó sử dụng để học hỏi cái
bất tri, cái vô lượng. Chức năng hoạt động của
nó nằm trong cái hữu tri, nó không thể hoạt động
trong cái bất tri (tâm rỗng rang vô lượng).
Những sáng chế của nó ở trong phạm vi hữu tri;
nó sẽ không bao giờ nắm bắt được sự sáng tạo của
cái bất tri, dù cho dùng đến ngôn ngữ hay nghệ
thuật. Trí óc không thể biết đến chơn mĩ. Chỉ
trong im lặng tuyệt đối, vô ngôn, một sự vô hành
không tạo tác, không chuyển động, thì cái bao la
vô hạn mới xuất hiện.
* Khá
đau đớn trưa hôm qua, và hình như có tăng thêm.
Đến gần tối cái linh thiêng hiện hành, thấm nhập
cả phòng. Người khác cũng cảm nhận. Suốt đêm tác
động cơn đau có phần hòa hoãn, nhưng áp lực và
căng thẳng vẫn còn đó, giống như mặt trời phía
sau đám mây. Sáng nay rất sớm, mọi sự lại bắt
đầu. (…) Mọi cảm thức, mọi xúc động đều liên kết
với trí óc, nhưng đó không phải là tình yêu,
nhưng cái xuất thần này chính là tình yêu. Trí
óc chỉ có thể nhớ lại rất là khó khăn.
(…)
Sáng nay thật sớm, phép lành gần như bao phủ hết
quả đất, đang tràn ngập khắp phòng. Và theo đó
xuất hiện sự tịch tĩnh làm im bặt hết mọi sự
vật, một sự bất động chứa đựng tất cả chuyển
động.
*
Sống với một cái gì là thương yêu cái đó chứ
không phải ràng buộc vào cái đó.
*
Chấm dứt phiền não nằm trong sự quán chiếu sự
kiện thực tế.
* Cái
rỗng rang này không phải là một trạng thái ngoan
không, trống trải; đó là năng lượng không có
trung tâm, không có biên giới.
*
Sáng nay dậy sớm để sống trong phép lành. Cơ thể
bị bó buộc ngồi yên trước vẻ sáng sủa đó, vẻ đẹp
đẽ đó. Sau đó suốt buổi sáng, ngồi trên ghế dài
bên lề đường dưới bóng cây, phép lành được cảm
nhận trong cái vô lượng vô biên. Phép lành cũng
ban cho ta nơi trú ẩn, chỗ bảo bọc, giống hệt
cội cây kia với tàng lá, tuy để ánh sáng soi qua
vẫn che mát được dưới ánh nắng gay gắt miền núi.
Mọi tương giao chính là che mát thấm đượm tự do,
và chính tự do bảo đảm cho ta nơi trú ẩn.
* Nếu
bạn có tiền, bạn cũng khổ; nếu bạn không có
tiền, bạn cũng khổ. (…) Tiền bạc và quyền uy ngự
trị không dứt; càng có càng muốn thêm, và cứ như
thế vô cùng tận. Nhưng phía sau tất cả tiền bạc
và quyền uy ẩn dấu nỗi khổ không tránh được; ta
có thể lãng tránh, tìm quên, nhưng khổ đau luôn
luôn hiện diện; với nó không thể bàn cãi được và
nó ở đó, vết đau hằn sâu mà không gì có thể chữa
trị được.
*
Bằng vận hành của thời gian (tâm lí) không thể
có chuyển hóa được. Phủ nhận thời gian chính là
chuyển hóa; có chuyển hóa khi đã loại bỏ những
thuộc tính phát sinh từ thời gian tức là thói
quen, truyền thống, cải cách, các lí tưởng. Phủ
nhận thời gian thì có chuyển hóa, chuyển hóa
toàn diện và không phải là thay đổi hình tướng
bên ngoài, cũng không phải thay thế một hình
tướng này bằng một hình tướng khác. Nhưng thu
đạt kiến thức, kĩ thuật, đòi hỏi phải có thời
gian, ta không thể cũng chẳng nên chối bỏ; những
năng lực này thiết yếu cho cuộc sống hằng ngày.
Thời gian cần thiết để đi từ chỗ này đến chỗ
khác không phải là ảo tưởng, nhưng mọi hình thức
khác của thời gian đều là ảo vọng. Chuyển hóa
gồm có chú tâm mà từ đó sinh khởi một hình thức
hành động khác. (…).
*
Thiền định là ở chỗ làm tâm trống rỗng hết mọi
tư tưởng, mọi cảm thức, vì những thứ này làm tan
biến năng lực; chúng có tính lặp đi lặp lại, đưa
đến những hành động máy móc; hành động này là
thành phần cần thiết cho sự sống, nhưng chúng
chỉ là một thành phần. Tư tưởng và cảm thức
không thể biết thâm nhập vào cái bao la vô tận
của sự sống.
* Khi
trí óc không còn nuôi dưỡng bằng kí ức, bằng tư
tưởng, khi trí óc để cho kinh nghiệm chết đi,
thì hoạt động sẽ không còn quy ngã nữa. Lúc đó
trí óc sẽ nuôi dưỡng các nơi khác. Và chính
nguồn lương thực đó sẽ làm cho tâm thức thành
tôn giáo.
* Ra
khỏi tư tưởng là đức hạnh, và đức hạnh là tính
mẫn cảm mở rộng, là tình yêu. Hãy thương yêu và
sẽ không có tội lỗi; hãy thương yêu và cứ làm
điều gì bạn muốn, lúc đó sẽ không có đau khổ.
* Trí
óc vận hành trong cái manh mún, từng phần, chia
chẻ. Nó tự chuyên môn hóa. Nó không bao giờ là
cái toàn thể, cái mà nó muốn nắm giữ, muốn hiểu
biết nhưng vô hiệu. Vì chính bản chất của nó,
nên tư tưởng luôn luôn không toàn vẹn, cảm thức
cũng thế; tư tưởng, phản ứng của kí ức chỉ có
thể vận hành trong cái đã biết, hoặc lí giải từ
kiến thức. Trí óc là sản phẩm của sự chuyên môn
hóa. Nó không thể vượt lên trên chính nó. Nó
chia chẻ và tự chuyên môn hóa thành nhà khoa
học, nghệ sĩ, giáo sĩ, luật gia, kĩ thuật gia,
nông gia… Nó hoạt động bằng cách phóng chiếu lên
giai cấp xã hội, đặc quyền, quyền hành, uy thế
của nó. Sự vận hành não bộ và giai cấp xã hội
liên kết với nhau chặt chẽ, vì trí óc là một cơ
quan tự bảo vệ. Chính từ nhu cầu này mà những
yếu tố đối nghịch và chống trái của xã hội phát
sinh. Nhà chuyên môn thì không có khả năng nhìn
được toàn diện.
(…)
Năng khiếu và thiên tư hiển nhiên là nguy hại,
vì củng cố tính vị ngã; vì mang tính chia chẻ
vụn vặt nên nuôi dưỡng xung đột. Năng khiếu chỉ
có giá trị trong sự nhìn thấu toàn diện đời
sống, sự nhìn thấu này nằm trong lĩnh vực của
tâm chứ không phải của trí óc. Năng khiếu với sự
vận hành của nó nằm trong giới hạn của trí óc,
do đó năng khiếu trở nên nhẫn tâm, lãnh đạm đối
với tiến trình toàn thể của đời sống. Năng khiếu
gây ra lòng kiêu hãnh, ham muốn, và sự thành tựu
của nó trở thành ưu tiên hàng đầu, nó đưa đến
thù ghét, vô trật tự, đau khổ; nó chỉ có giá trị
nếu nhận thức được toàn thể sự sống. (…).
(…)
Trí óc vận hành bằng cách tự chuyên môn hóa với
sự chia chẻ manh mún, với những hoạt động cô lập
lại nó trong địa hạt giới hạn của thời gian. Trí
óc không có khả năng nhìn thấy toàn thể sự sống;
dù có được giáo hóa đến đâu, trí óc cũng chỉ là
một phần chứ không phải là toàn thể. Chỉ có tâm
mới thấy được cái toàn thể, và phạm vi của tâm
bao trùm luôn trí óc; trí óc dù có làm gì đi nữa
cũng không thể chứa đựng được tâm.
Để
nhìn thấy toàn thể, trí óc phải ở trong trạng
thái buông xả. Buông xả hoặc phủ nhận không phải
là đối nghịch của khẳng định; những cái đối
nghịch đều liên kết với nhau. Sự phủ nhận không
có cái đối nghịch. Để có được cái nhìn toàn thể,
trí óc phải ở trong trạng thái phủ nhận tuyệt
đối; nó không được can thiệp vào bằng cách lượng
giá, biện bạch, kết án và tự vệ. Trí óc phải im
lặng mà không bị ép buộc; ép buộc sẽ làm cho trí
óc chết cứng, chỉ có khả năng mô phỏng và tùy
hợp. Chính trong trạng thái phủ nhận mà trí óc
tĩnh lặng không lựa chọn. Chỉ chính lúc đó cái
nhìn toàn thể mới phát sinh. Lúc đó tâm hoàn
toàn tỉnh thức, và trạng thái này không gồm có
người quan sát cũng như vật bị quan sát, mà chỉ
có ánh sáng, chỉ có sáng suốt. Sự đối kháng và
xung đột giữa người tư duy và tư tưởng kết
thúc.
*
Thức dậy sáng nay; mặt trời còn nằm dưới đường
chân trời; bình minh đã bắt đầu và thiền định tự
dâng cho “bờ bên kia” mà phép lành là sức mạnh
và sáng suốt. “Bờ bên kia” đã ở đó chiều hôm
qua, ngay lúc mặt trời lặn, rất sáng, bất ngờ.
Nhiều ngày nay nó đã không xuất hiện. Thân tự
điều hòa theo nhịp độ cuộc sống phố thị và, khi
“bờ bên kia” đến, nó biểu lộ một vẻ đẹp, một
cường lực đến đỗi mọi sự đều im lìm bất động; nó
tràn ngập căn phòng và còn vượt qua đó nữa.
* Có
bản thể của thâm cùng ở đó. Bản thể của tư tưởng
chính là tâm thái vô niệm. Tư tưởng, dù có tiếp
nối với nhau thật thâm sâu, thật rộng lớn, vẫn
luôn luôn chóng tàn, phiến diện. Chấm dứt tư
tưởng chính là khởi đầu của bản thể. Chấm dứt tư
tưởng là phủ định và phủ định thì không có mục
tiêu nào xác định. Không có phương pháp, hệ
thống để dừng bặt tư tưởng. Phương pháp, hệ
thống chỉ là xác định tiệm cận với phủ định, và
như thế tư tưởng sẽ không bao giờ có thể tự tìm
nơi có bản thể của chính nó. Tư tưởng phải dừng
bặt để cho bản thể hiển lộ. Bản thể của hữu là
phi hữu, và để “thấy” cái thâm cùng của phi hữu,
ta phải tự do thoát khỏi cái trở thành. Không
thể nào tự do trong sự tương tục, và mọi điều
bao hàm sự tương tục đều dính mắc vào thời gian.
(…).
* Cô
đơn một mình, nhưng không một chút gì cô lập,
giống như một giọt nước mưa chứa đựng hết cả
nước trên mặt đất.
* Tư
tưởng là vật chất và có thể biến thành bất cứ
thứ gì, xấu hay đẹp. Nhưng có một cái linh
thiêng không phát xuất từ tư tưởng hoặc tình
cảm, từ đó tư tưởng đã sống lại. Tư tưởng không
thể biết và cũng không thể sử dụng được. Tư
tưởng cũng không thể bộc lộ. Nhưng cái linh
thiêng đó hiện hữu, không bao giờ biểu tượng
hoặc lời lẽ có thể chạm đến được. Cái linh
thiêng đó không thể truyền thông được. Đó là một
sự kiện thực tế.
Một
sự kiện thì phải được nhìn thấy, nhưng cái thấy
này độc lập với ngôn từ. Khi sự kiện được diễn
giải thì thôi không còn là sự kiện nữa, mà biến
thành một cái gì hoàn toàn khác hẳn. Thấy là một
điều gì hết sức quan trọng. Cái thấy này vượt ra
ngoài không-thời gian, nó ngay đó và trong
khoảnh khắc.
(…)
Sự hiện diện của nó đang ở đây, tràn ngập khắp
phòng, chan rải trên các ngọn đồi, trên những
dòng nước, bao phủ hết cả hành tinh.
Đêm
vừa qua, như đã xảy ra một hai lần trước đây,
thân thể chỉ còn là một cơ quan và không là gì
khác, đang vận hành, trống rỗng và bất động.
*
Thành công (với tâm lí quy ngã) thật là tàn bạo
dưới mọi khía cạnh, dù là chính trị, tôn giáo,
nghệ thuật, kinh tài… Thành công đưa đến cứng
rắn.
*
Chứng nghiệm về bản thể là đỉnh cao của cường
lực, của nhạy cảm. Đây là vẻ đẹp vượt trên ngôn
ngữ và cảm thức.
* Bận
rộn, tuy vậy áp lực và căng thẳng vẫn còn đến
trưa.
Dù
những hành động cần thiết trong cuộc sống hằng
ngày có ra sao đi nữa, thì va chạm và biến động
mà cuộc sống đã gieo rắc không nên để lại dấu
vết phía sau chúng ta. Chính những dấu vết này
tạo ra bản ngã, cá tính, củng cố dần theo dòng
đời, và lập thành bức tường hầu như không vượt
qua nổi.
*
Tỉnh giấc nửa đêm với cảm thức về một sức lực
bao la, vô cùng tận. Không phải là sức lực tập
trung chung quanh dục vọng hoặc ý muốn, mà là
sức lực hiện diện khắp sông núi cây cỏ.
Hành
động của con người là thực hành sự chọn lựa,
thực hành theo ý muốn; hành động này bao gồm
xung đột và đối kháng, từ đó sinh đau khổ. Hành
động đó phát xuất từ một nguyên nhân (tâm lí),
một động lực, do đó là phản ứng. Nhưng hành động
hiện khởi từ sức lực vô ngã thì tự do, thoát
khỏi mọi nguyên nhân, động lực; do đó sức lực
này vô cùng tận, là bản thể.
*
Chân lí không thể nào chính xác, vì cái gì có
thể đo lường được thì không phải là chân lí. Chỉ
có cái gì không sống động mới có thể đo lường
được, chiều cao của nó mới có thể tìm bắt được.
*
Sống không phải là trút bỏ hết kinh nghiệm,
nhưng không có sự sống khi đất não dày đặc dây
mơ rễ má. Khiêm cung không phải là loại bỏ có ý
thức cái đã biết, sự loại bỏ này là lòng kiêu
ngạo của sự thành tựu; khiêm cung là cái bất tri
tuyệt đối, tức là chết đi. Sợ chết chỉ có trong
cái đã biết, chứ không phải trong cái ta không
biết. Không có sợ hãi đối với cái bất tri; sợ
hãi chỉ có khi cái đã biết thay đổi, chấm dứt.
* Mọi
hệ thống đều không tránh khỏi khuôn đúc tư tưởng
theo một mẫu mực, và chủ nghĩa xu thời sẽ hủy
diệt sự bừng nở của thiền định. (…) Không có tự
do sẽ không có tự tri và không tự tri tức là
không phải thiền định.
*
Tâm thái một mình là rỗng rang; trong ngọn lửa
Không này, tâm trở về tươi trẻ và an nhiên. Và
chỉ có tính an nhiên này mới có thể nhận được
cái phi thời gian, cái mới mẻ không ngừng tự
chết đi. Sự chết đi chính là sinh tạo. Không có
tình yêu thì không có sự chết đi.
* Đời
sống toàn thể bao hàm cái chia chẻ vụn vặt,
nhưng cái chia chẻ này sẽ không bao giờ hiểu
được cái toàn thể.
*
Kiến thức ngăn ngại khám phá. Kiến thức luôn
luôn bắt nguồn từ thời gian (tâm lí), từ quá
khứ, không bao giờ mang lại tự do. Nhưng kiến
thức cần thiết cho hành động, cho tư tưởng;
không hành động thì không thể có hiện hữu. Nhưng
dù hiền triết, chân chính và cao thượng đến đâu,
hành động sẽ không đưa đến chân lí. Không có con
đường dẫn đến chân lí.
*
Chính sự quan sát tiến trình của tư tưởng, của
thời gian (tâm lí) và nỗi sợ hãi, rõ biết toàn
diện tiến trình này, chứ không phải chỉ một ý
tưởng hoặc một định thức tri thức, sẽ chấm dứt
được sợ hãi, trên mặt ý thức lẫn tiềm thức. Tự
tri là tỉnh thức và là chấm dứt sợ hãi (tâm
lí).
* Sợ
hãi nội tâm sẽ biến nhu cầu về an toàn ngoại
giới thành một bài toán về giai cấp, về uy tín,
về quyền lực, và hậu quả là có đấu tranh tàn
bạo.
* Từ
bỏ là nhìn thấy sự thật như thị, sai lầm như thị
và cái chân thật trong cái sai lầm. Đó là một
hành vi chứ không phải một ý tưởng.
* Từ
bỏ thời gian (tâm lí) chính là bản chất của cái
phi thời gian.
*
Thức dậy, tuy còn ngái ngủ, nhận thức được tiến
trình kéo dài về đêm, và hơn thế nữa phép lành
khai mở. Có cảm thức tác động lên con người.
Thần lực đó, sức mạnh đó, ra khỏi và tuôn trào
ra ngoài, như một thác nước từ đất phun vọt lên
qua những mõm đá. Trong mọi sự này, hạnh phúc lạ
thường khôn tả, một sự xuất thần không liên quan
gì đến tư tưởng, đến cảm thức.
*
Trong ánh chớp tuệ quán này sẽ phát sinh một tri
giác mới mẻ.
* Tâm
trí tịch lặng và rất tỉnh sáng. Tràn đầy cả đêm
cái vô lượng vô biên đó, và kèm theo là thánh
phúc.
* Im
lặng này là cái Không, từ đó tuôn chảy và cũng
từ đó phát xuất sự hiện hữu của vạn vật. Lặng im
này là cái bất tri. (…).
Buổi
sáng tươi trẻ đến đỗi các ngôi sao vẫn luôn sinh
động và lấp lánh. Bình minh hãy còn lâu; tất cả
đều yên tĩnh một cách lạ lùng, ngay cả thác nước
ầm ĩ cũng câm nín, và những ngọn đồi cũng lặng
lẽ.
* Nó
theo chúng tôi chí đến giờ đi ngủ và duy trì
thành tiếng rì rào suốt đêm. Điều này không
thuộc phạm vi kinh nghiệm, nó chỉ ở đó một cách
giản dị, bằng một sức mạnh dữ dội, một phép
lành.
* Tâm
trong tính toàn thể bao trùm cả trí óc, tư tưởng
của nó, cảm thức của nó, đang rỗng rang; và từ
cái rỗng rang đó, năng lực càng lúc càng thâm
sâu, lan rộng, vô lượng. Bởi vì mọi so sánh, mọi
lượng giá đều xuất xứ từ tư tưởng tức là thời
gian. “Bờ bên kia” là tâm phi thời gian, là hơi
thở của chân chất an nhiên và của cái bao la vô
tận. Ngôn từ không phải là thực tại; chúng chỉ
là một phương tiện truyền thông chứ không phải
là cái chân chất an nhiên, cái vô lượng vô biên.
Cái trống rỗng là cái một mình.
* Chỉ
có một chuyển động duy nhất trong đời sống, bên
ngoài lẫn bên trong, không thể chia chẻ được, dù
cho có phân biệt. Phân biệt làm cho số đông
người chạy theo chuyển động bên ngoài của kiến
thức, của ý tưởng, của tín ngưỡng, của quyền
hành, an toàn, thịnh vượng, và cứ tiếp nối như
thế. Ngược lại, có người lại bám chặt vào một
đời sống mạo xưng là nội tâm, thành lập từ ảo
ảnh, hi vọng, khát vọng, tĩnh lặng, xung đột và
thất vọng. Chuyển động, vì là phản ứng, nên xung
chướng với đời sống bên ngoài. Như vậy có đối
kháng, tiếp theo là đau khổ, sợ hãi và trốn
chạy.
Chỉ
có một chuyển động duy nhất bên ngoài lẫn bên
trong. Hiểu biết về bên ngoài, không xung đối
cũng không kháng nghịch thì chuyển động thật sự
của bên trong bắt đầu. Xung đột đã loại trừ, và
tuy bén nhạy nhưng ngay đỉnh cao của nhạy cảm,
trí óc vẫn đạt được tịch lặng. Chỉ ngay lúc đó,
chuyển động nội tâm mới trở nên thật sự và có ý
nghĩa.
Từ
chuyển động này phát sinh lòng quảng đại, lòng
từ bi không bắt nguồn từ lí trí, cũng không phải
từ sự từ bỏ có suy nghĩ cân nhắc.
----------
12)
NÓI VỀ HOẠT ĐỘNG TRÍ NÃO
(Sưu
tầm)
* Trí
óc vận hành trong cái manh mún, từng phần, chia
chẻ. Nó tự chuyên môn hóa. Nó không bao giờ là
cái toàn thể, cái mà nó muốn nắm giữ, muốn hiểu
biết nhưng vô hiệu. Vì chính bản chất của nó,
nên tư tưởng luôn luôn không toàn vẹn, cảm thức
cũng thế; tư tưởng, phản ứng của kí ức chỉ có
thể vận hành trong cái đã biết, hoặc lí giải từ
kiến thức. Trí óc là sản phẩm của sự chuyên môn
hóa. Nó không thể vượt lên trên chính nó. Nó
chia chẻ và tự chuyên môn hóa thành nhà khoa
học, nghệ sĩ, giáo sĩ, luật gia, kĩ thuật gia,
nông gia… Nó hoạt động bằng cách phóng chiếu lên
giai cấp xã hội, đặc quyền, quyền hành, uy thế
của nó. Sự
vận hành não bộ và giai cấp xã hội liên kết với
nhau chặt chẽ, vì trí óc là một cơ quan tự bảo
vệ. Chính từ nhu cầu này mà những yếu tố đối
nghịch và chống trái của xã hội phát sinh. Nhà
chuyên môn thì không có khả năng nhìn được toàn
diện.
(…)
Năng khiếu và thiên tư hiển nhiên là nguy hại,
vì củng cố tính vị ngã; vì mang tính chia chẻ
vụn vặt nên nuôi dưỡng xung đột. Năng khiếu chỉ
có giá trị trong sự nhìn thấu toàn diện đời
sống, sự
nhìn thấu này nằm trong lĩnh vực của tâm chứ
không phải của trí óc. Năng khiếu với
sự vận hành của nó nằm trong giới hạn của trí
óc, do đó năng khiếu trở nên nhẫn tâm, lãnh đạm
đối với tiến trình toàn thể của đời sống. Năng
khiếu gây ra lòng kiêu hãnh, ham muốn, và sự
thành tựu của nó trở thành ưu tiên hàng đầu, nó
đưa đến thù ghét, vô trật tự, đau khổ; nó
chỉ có giá trị nếu nhận thức được toàn thể sự
sống. (…).
(…)
Trí óc vận hành bằng cách tự chuyên môn hóa với
sự chia chẻ manh mún, với những hoạt động cô lập
lại nó trong địa hạt giới hạn của thời gian. Trí
óc không có khả năng nhìn thấy toàn thể sự sống;
dù có được giáo hóa đến đâu, trí óc cũng chỉ là
một phần chứ không phải là toàn thể. Chỉ
có tâm mới thấy được cái toàn thể, và phạm vi
của tâm bao trùm luôn trí óc; trí óc dù có làm
gì đi nữa cũng không thể chứa đựng được tâm.
Để
nhìn thấy toàn thể, trí óc phải ở trong trạng
thái buông xả. Buông xả hoặc phủ nhận không phải
là đối nghịch của khẳng định; những cái đối
nghịch đều liên kết với nhau. Sự phủ nhận không
có cái đối nghịch. Để có được cái nhìn toàn thể,
trí óc phải ở trong trạng thái phủ nhận tuyệt
đối; nó không được can thiệp vào bằng cách lượng
giá, biện bạch, kết án và tự vệ. Trí óc phải im
lặng mà không bị ép buộc; ép buộc sẽ làm cho trí
óc chết cứng, chỉ có khả năng mô phỏng và tùy
hợp. Chính
trong trạng thái phủ nhận mà trí óc tĩnh lặng
không lựa chọn. Chỉ chính lúc đó cái nhìn toàn
thể mới phát sinh. Lúc đó tâm hoàn toàn tỉnh
thức, và trạng thái này không gồm có người quan
sát cũng như vật bị quan sát, mà chỉ có ánh
sáng, chỉ có sáng suốt. Sự đối kháng và
xung đột giữa người tư duy và tư tưởng kết thúc. (Jiddu
Krishnamurti-danh nhân giác ngộ. Bút hoa (The
Krishnamurti’s notebook); Ẩn Hạc dịch).
---
* Cần
phải thừa nhận rằng trong các khoa học tự nhiên
cũng có một phần lớn mang tính chủ quan. Với vai
trò là sinh vật biết tư duy, nhà
khoa học không thể quan sát Tự nhiên một cách
hoàn toàn khách quan. Einstein từng
nói: “Các khái niệm vật lí là những sáng tạo tự
do của trí tuệ con người, ngay cả khi chúng có
vẻ như được quyết định chỉ bởi thế giới bên
ngoài. Những cố gắng của chúng ta nhằm nắm bắt
hiện thực cũng tựa như những nỗ lực của người
tìm cách hiểu cơ chế hoạt động của một chiếc
đồng hồ kín mít. Anh ta chỉ nhìn thấy mặt đồng
hồ và các kim chuyển động, thậm chí còn nghe cả
tiếng tích tắc, nhưng anh ta không có cách nào
để tháo vỏ đồng hồ ra. Nếu đủ thông minh, anh ta
sẽ tạo ra hình ảnh của một cơ cấu đã gây ra tất
cả những gì anh ta quan sát được, nhưng anh ta
không bao giờ có thể chắc chắn rằng hình ảnh mà
anh ta tạo ra là duy nhất có thể giải thích được
những quan sát của mình. Anh
ta sẽ không bao giờ có thể so sánh được mô hình
của mình với cấu trúc thực, và thậm chí cũng
không thể hình dung ra được liệu sự so sánh này
có một ý nghĩa nào không”. (Trịnh
Xuân Thuận-nhà vật lí thiên văn.Cái vô hạn trong
lòng bàn tay; (đồng tác giả: Mathieu Ricard);
Phạm Văn Thiều & Ngô Vũ dịch).
---
*
Thực ra, ngành sinh học thần kinh đã chứng tỏ
được rằng “hiện thực” chỉ xuất hiện đồng nhất
đối với các sinh vật cùng loài có cùng một hệ
thần kinh. Các loài khác nhau thì cảm nhận thế
giới theo các cách khác nhau. Chẳng hạn, nhiều
nghiên cứu đối với loài cá, chim và côn trùng đã
chứng tỏ rằng màu sắc và hình dạng của các vật
được các loài vật này cảm nhận theo những cách
hoàn toàn khác với con người. Hiện
thực chắc chắn bị thay đổi tùy theo hệ thống
thần kinh cảm nhận nó. (Trịnh
Xuân Thuận; sách đã dẫn).
---
* Nếu
người ta phân tích một trong những cách tri giác
nào đó, như cách tri giác của con người chẳng
hạn, thì người ta sẽ nghiệm thấy đơn giản rằng,
trong một số điều kiện, người ta quan sát và đo
lường một số hiện tượng theo cách có thể tái tạo
được. Nhưng làm như vậy, hiện thực của “vật”
không vượt qua thân phận ban đầu của nó, tức là
cái “nhãn mác tinh thần”. Quá
trình thực nghiệm này chưa bao giờ chứng tỏ rằng
cái mà người ta quan sát là tồn tại tự thân và
có các đặc tính nội tại. Chúng ta có
thể nhìn thấy một nghìn lần hai Mặt trăng bằng
cách áp một nghìn lần hai ngón tay vào nhãn cầu
của chúng ta, và chắc chắn là việc nhìn thấy hai
Mặt trăng này không hề có nghĩa là có hai Mặt
trăng thật! (Mathieu
Ricard-nhà sinh học; sách đã dẫn).
---
*
Định lí về tính không đầy đủ của Godel thực tế
ngụ ý rằng có tồn tại những giới hạn đối với sự
suy luận logic, chí ít là trong toán học. Định
lí này thường được coi là một phát minh logic
quan trọng nhất của thế kỉ XX. (…) Năm 1931, ông
đưa ra một định lí có lẽ là tuyệt vời và bí hiểm
nhất trong số các định lí toán học. Ông đã chứng
tỏ được rằng một hệ thống số học nhất quán và
phi mâu thuẫn chắc chắn sẽ chứa các mệnh đề
“không giải quyết được”, tức
là các phát biểu toán học mà người ta không thể
bằng logic nói được chúng là đúng hay sai.
Mặt khác, không thể chứng minh được rằng một hệ
thống là nhất quán và phi mâu thuẫn chỉ dựa trên
cơ sở của các tiền đề (các mệnh đề đầu tiên được
chấp nhận không cần chứng minh) có trong hệ
thống này. Ngược lại, cần phải “đi ra ngoài hệ
thống” và đưa ra các tiền đề phụ bên ngoài hệ
thống. Theo
nghĩa này, hệ thống tự bản thân nó chỉ có thể là
không đầy đủ. Chính vì thế, định lí của
Godel cũng thường được gọi là “định lí về tính
không đầy đủ”.
Định lí này quả thật chẳng khác gì cú sét trong
thế giới toán học. Godel
đã chứng minh rằng logic có những giới hạn và
rằng giấc mơ của Hilbert (biết chứng minh một
cách chặt chẽ sự nhất quán của toàn bộ toán học)
là một ảo tưởng. Nó
cũng có những ảnh hưởng rất lớn đến các lĩnh vực
khác của tư duy như triết học hay tin học.(Trịnh
Xuân Thuận; sách đã dẫn).
---
* Từ
khi khoa học hiện đại ra đời vào thế kỉ XVI, vốn
tri thức của chúng ta đã tăng lên theo hàm mũ, nhưng
nó không làm cho chúng ta tỏ nên minh triết hơn.
Tình hình càng trở nên cấp bách khi con người
hiện nay đang có khả năng sẽ làm đảo lộn sự cân
bằng sinh thái của toàn bộ hành tinh, thậm
chí còn có thể tự hủy diệt mình, khi
các vấn đề đạo đức ngày càng trở nên gay gắt, và
khoảng cách giàu nghèo vẫn không ngừng nới rộng
thêm… (Trịnh
Xuân Thuận; sách đã dẫn).
---
*
Nghiệp có thể chuyển thành chiếc chìa khóa để
tìm hiểu chính bộ não. Các
nhà thần kinh học lúng túng trước cái họ gọi là
“hiệu ứng liên kết”, một lực lượng huyền bí kết
nối các vùng khác nhau trong não lại.
(…).
(…)
Chúng ta đều mang trong tâm trí mình một cơ sở
dữ liệu thông tin rộng lớn mà chúng ta coi là
nền tảng. Cơ sở dữ liệu này nắm giữ mọi thứ quan
trọng mà chúng ta tin tưởng về thế giới. Đó là
thế giới quan của chúng ta. Chúng ta phụ thuộc
vào nó để sống sót thậm chí một thời gian ngắn. Các
niềm tin phát triển qua nhiều thế kỉ, và do vậy
một số nhà nghiên cứu coi niềm tin như bản thể
dạng “gene ảo” trở thành các đặc tính cố định
của bộ não. (…).
(…)
Thế giới quan cung cấp lối mòn cho hành vi,
không may là nhiều khi nguy hiểm. Các đặc tính
như chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và sự hiếu
chiến tồn tại như các phản xạ tự nhiên. (…). Đây
chính là cái Bhagavad-Gita ngụ ý với tên gọi là hiệu
ứng trói buộc của nghiệp. (…). (Deepar
Chopra-tiến sĩ y học, giảng dạy ở Đại học
Boston. Sự sống sau cái chết: gánh nặng chứng
minh; Trần Quang Hưng dịch).
---
* Cho
tới đây chúng ta chỉ mới nói cái tác dụng bóp
méo của dồn ép; còn một phương diện nữa mà ta
phải đề cập đến không đưa đến bóp méo, nhưng
biến một kinh nghiệm thành phi thực bằng tác
động của não. (…).
Tiến trình tác động óc não này được nối kết với
tính chất mơ hồ của ngôn ngữ. Ngay khi tôi bày
tỏ một cái gì bằng một chữ, một sự vong thân xảy
ra, và trọn cả cái kinh nghiệm đã bị cái chữ ấy
thay thế.
Trọn cái kinh nghiệm chỉ thực sự hiện hữu vào
cái giây phút nó được biểu thị bằng ngôn ngữ.
Cái tiến trình thông thường của tác động óc não
tỏa rộng và mãnh liệt trong văn hóa hiện đại hơn
bất cứ lúc nào trước đây trong lịch sử. Chính vì
càng ngày người ta càng đề cao kiến thức trí
năng (…). (Erich
Fromm-nhà phân tâm học. Thiền và phân tâm học
(nhiều tác giả); Như Hạnh dịch).
---
* Dĩ
nhiên chúng ta phải sử dụng các ngôn từ khi một
điều gì đó được truyền đạt từ người này sang
người khác, nhưng các ngôn từ chỉ là sự nêu trỏ
suông chứ không phải là chính sự thực. Như kinh
bảo, chúng ta phải dùng đến ngọn đèn ngôn từ để
đi vào trong cái chân lí nội tại của kinh nghiệm
vượt khỏi ngôn từ và tư tưởng. Nhưng
quả thực là hoàn toàn khờ dại khi tưởng ra rằng
ngọn đèn ấy là mọi sự. (Daisetz
Teitaro Suzuki-thiền sư học giả. Nghiên cứu Kinh
Lăng Già; Thích Chơn Thiện & Trần Tuấn Mẫn
dịch).
---
* Một
vài năm trước đây, một thí nghiệm với các con
mèo con đã được các nhà khoa học tại Trường y
khoa Harward thực hiện. Ngay từ khi sinh ra,
người ta đã nuôi một số mèo trong một khu vực
sơn bằng các vạch kẻ ngang; tất cả các tác nhân
kích thích thị giác trong môi trường của chúng
đều nằm ngang. Một nhóm khác được nuôi trong một
khu vực với các vạch kẻ sọc thẳng, và đó là tất
cả những gì mà chúng có thể nhìn thấy. Khi những
con mèo này lớn lên, trở thành những con mèo già
khôn ngoan; còn những con mèo chỉ tiếp xúc với
những vạch ngang thì chỉ nhìn thấy thế giới nằm
ngang, ví dụ như chúng va đụng vào những chân đồ
đạc như thể những cái chân này không có ở đó.
Những con mèo được nuôi dưỡng trong thế giới
thẳng đứng cũng gặp vấn đề tương tự với thế giới
ngang. Lẽ đương nhiên những điều này không có gì
liên quan đến hệ thống lòng tin ở những con mèo
này. Khi người ta nghiên cứu trí não của chúng,
một nhóm mèo sẽ không có sự nối kết liên thần
kinh để nhìn thấy thế giới ngang, còn nhóm kia
cũng không có sự nối kết liên thần kinh để nhìn
thấy thế giới thẳng đứng. Sự trải nghiệm giác
quan ban đầu của những chú mèo này và cách thức
chúng hiểu sự trải nghiệm đó theo nhận thức của
chúng ngay từ những ngày đầu mới sinh khi thị
lực của chúng phát triển, đã thực sự hình thành
sự phân tách hệ thần kinh của chúng. Rốt cục,
những chú mèo này chỉ nhận biết được những gì mà
người ta đã tạo ra cho chúng và chúng nhận biết
được lập tức.
Một số nhà tâm lí học đã có thuật ngữ rất thú vị
về hiện tượng này - họ gọi nó là “sự cam kết
nhận thức sớm”. Sớm là vì chúng ta tiến hành
việc này ngay từ giai đoạn đầu cuộc sống của
chúng. Nhận
thức là vì nó ảnh hưởng đến sự phân tách hệ thần
kinh mà chúng ta nhận ra hay nhận biết về thế
giới. Và sự cam kết là vì nó cam kết
với chúng ta một thực tế nhất định. Một số nhà
khoa học có thể nói với bạn rằng ngay lúc này hệ
thần kinh bạn đang sử dụng sẽ tiếp nhận dưới một
phần tỉ của các tác nhân kích thích hiện hữu.
Các tác nhân kích thích mà hệ thần kinh của bạn
tiếp nhận được là những tác nhân tăng cường sự
vận động, ý tưởng, cách hiểu của bạn về những gì
mà bạn nghĩ là tồn tại ngoài kia. Nếu
bạn đã có cam kết với thực tế thì những thứ mà
tồn tại bên ngoài khung cam kết sẽ bị hệ thần
kinh của bạn loại ra, hệ thần kinh mà bạn sử
dụng để tạo ra sự quan sát. Tuỳ thuộc
vào loại cơ quan thụ cảm mà bạn có, tuỳ thuộc
vào loại hình các sự quan sát mà bạn muốn tạo ra
và các câu hỏi mà bạn tự hỏi khi bạn tạo ra
những quan sát này, tuỳ thuộc vào tất cả những
điều đó, bạn tiếp nhận một phần giới hạn nhất
định của thực tế. Rốt cục, hệ thần kinh của con
người chỉ có thể tiếp nhận bước sóng ánh sáng từ
400 đến 750 nanomet. Và nếu chúng ta ngẫu nhiên
đồng ý với các quan sát từ các giác quan của
chúng ta và sự lí giải cho những quan sát này,
thì chúng ta đã tạo
ra một khuôn khổ cho những lí giải mà chúng ta
thống nhất.
Chúng tôi gọi
phương pháp này là “khoa học”. Chúng tôi thường
coi khoa học như là một phương pháp khám phá sự
thật khi mà trên
thực tế, khoa học - như cách nó được kết cấu và
hoạt động cho đến nay - thực sự cũng chẳng phải
là một phương pháp để khám phá sự thật.
Nói đúng hơn, nó là một phương pháp khám phákhung
khái niệm hiện tại của chúng ta về
những gì chúng ta cho là sự thật. (…).(Deepak
Chopra-tiến sĩ y học. Vật lí lượng tử và ý thức
(Trí tuệ nổi trội); Vũ Thị Hồng Việt dịch).
---
*
Nền vật lí này bây giờ đã thấy vũ
trụ là một mạng lưới với những liên quan vật
chất và tâm linh chằng chịt, mà các phần tử chỉ
được định nghĩa trong mối tương quan với cái
toàn thể.
(…) Ngày nay vật lí hiện đại đã phát triển một
thái độ rất khác. Nhà vật lí đã nhìn nhận rằng,
tất cả lí thuyết của họ về hiện tượng tự nhiên,
kể cả những quy luật mà họ mô tả, tất cả đều do
đầu óc con người sáng tạo ra; tất
cả là tính chất của hình dung của chính chúng ta
về thực tại, chứ không phải bản thân thực tại.
(…) Trong vật lí lượng tử, người quan sát và vật
bị quan sát không thể chia cắt, nhưng hai cái đó
tiếp tục bị phân biệt. Còn
trong đạo học, trong sự thiền định sâu xa thì sự
phân biệt giữa người quan sát và vật bị quan sát
hoàn toàn xoá nhoà, trong đó người và
vật hoà nhập làm một.
(…) Sự thay đổi thế giới quan đang diễn ra sẽ
chứa đựng một sự thay đổi sâu sắc về giá trị;
thực tế là sự thay đổi từ tâm can - từ ý định
ngự trị và điều khiển thiên nhiên đến một thái
độ hợp tác và bất bạo động. (Fritjof
Capra-giáo sư tiến sĩ vật lí. Đạo của vật lí;
Nguyễn Tường Bách dịch).
---
* (…)
Dần dà trong quá trình tiến hoá trong thế giới
tế vi xuất hiện đu-khơ
– là khối năng lượng tâm thần kết đông dưới dạng
các trường xoắn có
thể bảo toàn vĩnh cửu trong mình một khối lượng
thông tin to lớn. Nhiều
đu-khơ tạo thành giữa chúng những mối liên hệ
thông tin và tạo ra Không gian thông tin toàn
thể, tức Cõi kia(…).
(…) Liệu con người trong thế giới vật thể có thể
sống thiếu Cõi kia không? Sau khi tạo bộ gen và
nhờ đó tiến hành quá trình tái tạo con người (sinh
đẻ đứa trẻ) trên Trái đất, đu-khơ giữ lại cho
mình chức năng tư duy chủ yếu. Trong quan niệm
tôn giáo, khi đứa bé chào đời đu-khơ nhập vào
đứa trẻ và ấn định những năng lực tư duy chủ yếu
của con người. Nghĩa là, chúng
ta suy nghĩ chủ yếu nhờ vào đu-khơ sống ở thế
giới tế vi. Nhờ năng lượng thế giới vật
thể (ăn uống) não người có khả năng vặn các
trường xoắn của thế giới tế vi và như vậy hỗ trợ
đu-khơ trong quá trình tư duy. Ngoài ra, não còn
tạo các trường xoắn phụ hình thành đu-sa (sinh
trường) ở dạng các thể thanh bai và các thể khác
hỗ trợ cơ thể người hoạt động. Sau khi xác thân
chết, nhiều bộ phận tạo thành đu-sa (các thể
thanh bai) cũng bị phá huỷ, còn lại đu-khơ
thì bay về Cõi kia và tiếp tục sống ở thế giới
tế vi để rồi lúc nào đó lại bước vào kiếp mới.
Vậy là con người, sau khi được tạo ra trong thế
giới vật thể nhờ các “nỗ lực” của thế giới tế
vi, là
sự kết hợp các hình thái sự sống ở thế giới vật
thể và thế giới tế vi.
Mọi ngưòi đều biết rõ khái niệm karma (nghiệp),
tức là các “vết tích” của các tiền kiếp để lại
trong đu-khơ. Giai đoạn trần thế ở thế
giới vật thể, đu-khơ có thể hoàn thiện mà cũng
có thể thoái hoá. (…) Chính con người khác biệt
với con vật ở chỗ: bộ máy tư duy của con người
có nhiệm vụ hoàn thiện đu-khơ (đưa vào đó nhiều
thông tin xây dựng) và bằng cách đó, hoàn thiện
hình thái sự sống ở thế giới tế vi. Nói cách
khác, là đứa con thể xác của sự sống nơi thế
giới tế vi, con
người có sứ mệnh thông qua thế giới vật thể thúc
đẩy sự tiến bộ nơi thế giới tế vi. Con
người được tạo ra cũng là bởi lẽ đó. (…)
(…) Sự sống và cái chết thay đổi luôn là để
nhanh chóng thay con người độc ác, ích kỉ và hám
danh bằng một người khác với hi vọng, sau khi
con người ở Cõi kia bị thần linh “trừng phạt” sẽ
đầu thai tái sinh trở thành người tốt hơn, thiện
hơn. Vì
vậy có lẽ huyền thoại về địa ngục và thiên
đường có cơ sở. (Erơnơ
Munđasep-nhà bác học lớn quốc tế. Chúng ta thoát
thai từ đâu; Hoàng Giang dịch).
----------
Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn) sưu tầm


|