Đạo Đức và Hạnh
Phúc
Thích Viên Trí

Mọi người hẳn sẽ nhất trí với lời phát biểu rằng đạo đức là giá trị
cao quý nhất đối với cuộc sống con người trong
mọi thời đại, đặc biệt là thế giới ngày nay. Từ
điển Graw Hill Book định nghĩa: “Đạo đức là
môn học đánh giá các hành vi thiện ác của con
người biểu hiện qua thân, lời, ý và được thực
hiện bởi ý chí, tình cảm và ý chí.”[1] Theo
Aristote, “Mục đích trực tiếp của con người
không phải là cái hay, cái đẹp mà chính là hạnh
phúc. Hạnh phúc là sự phát triển hoàn toàn đầy
đủ các đức tính của một con người... Hạnh phúc
đồng nghĩa với đạo đức.”[2]
Trong chừng mực nào đó, nếu đạo đức được hiểu là đồng nghĩa với
hạnh phúc thì chúng ta có thể nói rằng đạo Phật
là đạo hạnh phúc, vì giáo lý Phật Giáo chính là
con đường đạo đức giúp con người loại trừ khổ
đau và đạt được hạnh phúc ngay trong hiện tại và
tại đây. Nó thay thế những cảm nghiệm khổ đau
trong cuộc sống hằng ngày của con người bằng cảm
nghiệm hạnh phúc ngay khi người ta thực hành. Nó
là phương tiện để con người từng bước hoàn thiện
bản thân, phát triển nhân cách, đưa họ từ địa vị
phàm phu tiến dần đến qủa vị thánh giả. Hơn thế
nữa, giáo lý Phật Giáo chính là con đường giúp
cho người đạt được hạnh phúc tối hậu; đó là
Niết-bàn, sự giải thoát toàn vẹn, vì đức Phật
dạy “Ta chỉ dạy khổ và con đường diệt khổ.”[3]
Để đạt được những cấp độ hạnh phúc từ thấp đến cao như thế, tất
nhiên người ta cần phải học tập và thực hành
Phật Giáo, bao gồm trong ba pháp giới-định-tuệ
mà đức Phật đã thuyết giảng. Sống đúng với con
đường giới-định-tuệ nghĩa là hành giả đang nắm
giữ hạnh phúc chân thật, vì đây chính là đạo lộ
mà đức Phật đã hành trì và đạt được qủa vị giác
ngộ, giải thoát.
Cần phải nhận thức rõ rằng ba pháp giới-định-tuệ luôn cùng hiện hữu
mỗi khi một trong ba pháp ấy được hành trì.
Trong thực chất, giới-định-tuệ là ba mặt của một
vấn đề, là ba điều không thể tách rời mỗi khi đề
cập đến giáo lý Phật Giáo. Đức Phật dạy: “Trí
tuệ được giới hạnh làm cho thanh tịnh. Giới hạnh
được trí tuệ làm cho thanh tịnh. Ở đâu có giới ở
đó có trí tuệ; ở đâu có trí tuệ, ở đó có giới.
Người có giới hạnh nhất định có trí tuệ; người
có trí tuệ nhất định có giới hạnh.”[4] Như
vậy, mỗi khi đề cập đến một tức là đề cập đến cả
ba. Nói khác đi, khi đề cập đến giới là nói đến
con đường giải thoát giới định tuệ, nhưng đứng
trên bình diện của giới luật để phân tích và
bình luận.
Xa đề một chút, chúng ta nhận thấy rằng muốn xây dựng một chuẩn mức
đạo đức trong cuộc sống cá nhân, gia đình và xã
hội thì cần phải có những chuẩn tắc về hành vi
để con người cò thể y cứ vào đó mà đánh giá các
hành vi thiện hay bất thiện. Một hành vi đem đến
hạnh phúc cho mình, cho người, cho xã hội là
chuẩn tắc để đánh giá (ở đây đề cập đến giá trị
giải thoát của hành vi). Đối với Phật Giáo,
chuẩn tắc hành vi đó phải dựa vào giới, hay nói
chính xác hơn, chuẩn tắc ấy là giới.
Trong giáo lý Phật Giáo, giới có nhiều loại. Tùy theo cấp độ tu
hành khác nhau giữa hàng ngũ xuất gia và tại gia
mà giới được phân thành nhiều loại, như giới
Tỷ-kheo, giới Tỷ-kheo ni, giới sa di, giới sa di
ni, giới ưu bà tắc, ưu bà di... Bên cạnh ấy, do
môi trường, hoàn cảnh, phong tục, tập quán mà có
những sự khác nhau trong giới luật Phật Giáo.
Tuy nhiên, phần trình bày ở đây tập trung vào
năm giới căn bản của người Phật tử tại gia. Năm
giới này là năm điều kiện đạo đức tối thiểu của
một người Phật tử, và cũng là những chuẩn mực
đạo đức tạo ra con người lý tưởng theo đúng chân
nghĩa của nó.
Năm giới ấy bao gồm: (1) Không sát sanh; (20 Không lấy của không
cho; (3)Không tà dâm; (4) Không nói dối; (5)
Không uống rượu.
Qua nội dung vừa trình bày ở trên người ta dễ dàng nhận thấy rằng
năm giới này là để áp dụng cho con người, cho
đời sống con người nhằm để ngăn chận các hành vi
bất thiện do con người tạo ra (theo nghĩa tiêu
cực), và để tạo ra an lạc, hạnh phúc thật sự cho
chính con người và xã hội (theo nghĩa tích cực).
Giới là những điều không được vi phạm, cần phải tránh để bảo vệ đạo
đức và nhân phẩm của một con người. Khi một
người giữ gìn năm giới này được thanh tịnh thì
tâm người ấy được an ổn, tự tại vì biết rằng
mình đang trú trong đạo đức, nghĩa là đang ở xa
vực thẳm phi đạo đức. Từ sự an ổn đó người ta sẽ
cảm nhận được hạnh phúc và an lạc ngay trong
hiện tại và chính trong cuộc sống của mình ngay
tại đây. Khi năm giới được con người cảm nhận
một cách chân thật thì tâm người ấy hoàn toàn tự
do và thoải mái. Vì vậy chúng ta có thể nói rằng
năm giới là năm điều kiện sống tất yếu của một
con người, là năm điều kiện cần và đủ để làm
người, ví như cá phải sống trong nước, nếu tách
rời khỏi nước tất nhiên là cá tự hủy hoại cuộc
sống của chính nó.
Giới luật Phật Giáo có công năng tạo ra hạnh phúc và lợi ích thật
sự cho cuộc sống con người, xã hội từ cấp độ
thấp nhất (là con người đúng nghĩa), cho đến cấp
độ cao nhất là giải thoát tối hậu (Niết-bàn) tùy
theo cấp độ tu tập giới. Nhưng ở đây người viết
chỉ trình bày tổng quát một vài tính chất tiêu
biểu của giới:
(a)
Con người không bao giờ thích kẻ khác gây bất cứ
sự tổn thương nào đến cho mình (như tổn hại mạng
sống, mất mát tài sản, rối loạn hạnh phúc gia
đình...), thì chính những gì chúng ta không muốn
ấy cũng đừng nên gây hại cho người khác [5] Qua
ý nghĩa này chúng ta thấy rằng giữ gìn năm giới
chính là giữ gìn hạnh phúc của mình. Đây là một
ý nghĩa tích cực của giới.
(b)
Người ta sẽ dễ dàng nhận thấy rằng nếu những
giới điều trên bị vi phạm và phá bỏ thì chính
môi trường chung quanh (xã hội) sẽ rơi vào một
hoàn cảnh rối ren, đau khổ. Chỉ từ sự đánh mất
hạnh phúc của từng con người là đã tạo ra đau
khổ cho gia đình, xã hội, thậm chí sự tổn hại to
lớn như chiến tranh có thể bùng nổ, nhân loại có
thể diệt vong, nếu người ấy là kẻ có chức có
quyền. Vậy thì năm giới là năm điều kiện tất yếu
phải được tuân thủ, nếu như con người mong muốn
hạnh phúc thật sự.
(c)
Điểm điển hình kế tiếp của giới luật Phật Giáo
là từ bi. Mọi người có lẽ đều thừa nhận rằng đã
là con người nghĩa là đã từng khổ đau và đang
khổ đau (cảm giác theo từng cấp độ), vì như Lev.
Tonstol từng nói: “Mọi người đều có cảm giác
hạnh phúc giống nhau, nhưng cảm thọ khổ đau thì
mỗi người một kiểu”. Như thế, điều thiện cần
phải làm, từ bi cần phải có mặt là sự giúp đỡ
cần thiết cho con người, cho xã hội, trực tiếp
hoặc gián tiếp. Điều này nói lên một ý nghĩa
tích cực khác của giới luật Phật Giáo. Giữ giới
có nghĩa là bố thí: bố thí năm điều không sợ hãi
và đem đến năm điều an lạc cho con người, cho xã
hội. Cần lưu ý rằng từ bi của Phật Giáo không
phải chỉ để cảm thông với khổ đau của con người
trong quá khứ cũng như hiện tại, mà là tích cực
để đoạn trừ những nổi thống khổ ấy qua sự tu tập
năm giới. Từ bi của Phật Giáo liên hệ đến bất
bạo động, do vậy nó có thể loại trừ khả năng
sinh khởi các sai lầm do tham, sân, si điều
động.
(d)
Qua những điểm vừa trình bày trên chúng ta có
thể thấy rằng giới là bước đi đầu tiên, là bước
đi căn bản và vô cùng quan trọng trong lộ trình
tu tập hướng đến xây dựng một con người tốt, một
môi trường tốt và một xã hội tốt đẹp. Nếu giới
không được nghiêm giữ một cách thanh tịnh thì
việc tu tập thiền định khó mà đạt được kết qủa
tốt; và nếu có chăng cũng chỉ là những kết qủa
cỏn con. Nếu an lập được nền tảng các vấn đề đạo
đức (giới) thì không thể nào không tạo ra được
an lạc, hạnh phúc cho mình, cho gia đình và cho
xã hội. Ngay cả mục đích tối hậu, tức sự giải
thoát toàn vẹn, cũng đến từ bước khởi đầu này mà
chứng đắc. Nếu cuộc sống giữa con người với con
người, con người với gia đình, và con người với
xã hội mà đều tuân thủ và hành trì giới luật một
cách chân chánh thì không ai có thể chối cãi
rằng cuộc đời này là một trú xứ đầy an lạc và
hạnh phúc. Nói chính xác hơn, tịnh độ cũng chính
tại đây, tất cả đều phụ thuộc vào hành vi đạo
đức của con người mà được an lập.
Điều quan trọng cần phải lưu ý ở đây là sự hiện hành của pháp luật
xã hội cũng như giới luật của các tôn giáo khác.
Rõ ràng, sự tác động của những điều vừa được đề
cập không phải là ít đối với cuộc sống con người
và xã hội. Tuy nhiên, khách quan để đánh giá thì
người ta sẽ nhận thấy rằng sự tác động của chúng
chỉ mang tính răn đe và trừng phạt những hành vi
phạm tội của con người, được thể hiện ra ngoài
qua hành động của thân, miệng, ý. Trong khi ấy,
chủ nhân chính để tạo ra tội lỗi lại là ý (tâm).
Y là chủ nhân và là nhân tố chính điều động các
hành vi thiện ác. Như vậy, giáo dục là giáo dục
ngay ở nguồn gốc của nó; ngăn chận là ngăn chận
ngay ở thời điểm mà tội lỗi chưa phát sinh. Được
như thế, kết quả hạnh phúc mà con người đang chờ
đón mới có cơ hội đơm hoa, kết trái. Giới luật
Phật Giáo có công năng thực hiện trọn vẹn yếu tố
này. Trích dẫn ngắn gọn sau đây từ hai bài kệ
Pháp Cú hy vọng sẽ soi sáng cho vấn đề trên: “Tâm
dẫn đầu các pháp; tâm làm chủ, tâm tạo. Nếu nói
hay hành động; với tâm ý ô nhiễm. Khổ não bước
theo sau; như xe chân vật kéo”. Và “Tâm
dẫn đầu các pháp; tâm làm chủ, tâm tạo, nếu nói
hay hành động; với tâm ý thanh tịnh. An lạc sẽ
theo ta; như bóng không rời hình”
Dĩ nhiên, muốn giáo dục và xây dựng tốt con người và xã hội trong
một môi trường đạo đức thì cần phải có những mẫu
người đạo đức (theo nghĩa tương đối); những con
người sống đúng pháp, đúng luật. Phải chăng đó
là hình bóng của Tăng đoàn Phật Giáo! Đời sống
mô phạm của đức Phật và các Thánh đệ tử trong
thời đại của Ngài đã cho chúng ta thấy rằng, quả
thật cuộc sống phạm hạnh của Tăng đoàn là bài
pháp hùng hồn, là khuôn mẫu giáo dục có tác dụng
to lớn, tác động mạnh mẽ đến việc cải thiện đạo
đức cho người Phật tử nói riêng, và cho xã hội
nói chung. Cuộc sống đúng giới luật của Tăng già
là nền tảng vững chắc, là cơ sở thiết yếu để mọi
người nương tựa. Bằng như chỉ nói về, chỉ lý
thuyết, chỉ mơ ước thì ảnh hưởng của giới luật
không những rất ít, mà lắm khi lại phản tác
dụng, vì thực tế cho thấy rằng hành động đạo đức
bao giờ cũng có giá trị hơn nói về đạo đức. Như
vậy, yêu cầu bức thiết đối với Giáo Hội Phật
Giáo hiện nay là cần có những đệ tử Phật thực
hành chánh pháp, chuyên trì giới luật, sống đúng
truyền thống lục hòa theo nghĩa tích cực của nó.
Tăng đoàn cần phải phát huy sức mạnh, hiệu lực
và giá trị của mình trong việc truyền trao giới
pháp. Cần chú trọng đến phẩm chất, loại trừ chủ
nghĩa số lượng, nặng tính hình thức.
Dĩ nhiên, giới luật Phật Giáo nói chung và năm giới nói riêng không
chỉ dành cho đệ tử của đức Phật, cũng không phải
dành riêng cho một hạng người nào trong xã hội.
Nó dành cho tất cả mọi người, mọi lứa tuổi, mọi
dân tộc, mọi thời đại; dành cho những ai muốn có
cuộc sống an lạc, hạnh phúc cho mình, cho người
ngay trong hiện tại và tại đây (nếu như không
muốn nói đến tương lai), và cho những ai muốn có
một chuẩn mức để làm người theo đúng chân nghĩa.
Thế giới con người đang quằn quại trong khổ đau và lên án những
người đang vi phạm các nguyên tắc đạo đức cơ bản
này. Thế giới con người cũng đang khao khát một
cuộc sống hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc.
Như vậy, có phải chăng năm giới điều trên của
Phật Giáo là năm chuẩn tắc luân lý để xây dựng
một xã hội đạo đức lý tưởng (theo nghĩa tương
đối) mà Socrate, triết gia nổi tiếng của Hy Lạp,
đã mong chờ khi phát biểu rằng: “Một nền đạo
đức không thể căn cứ vào một giáo lý mơ hồ,
chúng ta phải tạo dựng một nền luân lý hoàn toàn
không lệ thuộc thần học, hoàn toàn thích hợp với
những người có tôn giáo cũng như không có tôn
giáo thì xã hội mới ổn định.”[6]
Phải chăng đã đến lúc mọi người cần phải quay lại với chính mình,
phải xác định lại mục đích thật sự mà họ đang
tìm kiếm và muốn vươn tới. Phải chăng hạnh phúc
là đối tượng mà con người đang mãi tìm kiếm.
Nhưng, hạnh phúc thì đồng nghĩa với đạo đức, mà
đạo đức chính là giới. Vậy thì chính lúc này con
người cần phải loại bỏ tất cả ngộ nhận, sai lầm
về giới luật của Phật Giáo, để tiến gần giới
luật, nằm giữ giới luật như là đang nắm giữa
hạnh phúc của mình; nắm giữ giới luật như là
đang duy trì chính nhân phẩm của mình vậy. Bằng
như ngược lại, cứ khao khát, tìm cầu hạnh phúc,
an lạc mà phá vỡ năm giới điều trên thì cũng như
người khát nước mà mãi uống nước biển vậy. Kết
quả chỉ là sự đau đớn, thống khổ của những người
thiếu trí tuệ, như vua Trần Thái Tông từng nói:
“Phong trần thất thểu làm thân khách,
Ngày mãi xa quê vạn dặm đường”[7]
Đề cập đến năm giới căn bản, năm điều đạo đức tối thiểu của Phật
Giáo mà đã có thể đem lại hạnh phúc thiết thực
và to lớn cho con người, cho xã hội như thế (nếu
được thực thi). Chắc chắn rằng những giới điều
khác của Phật Giáo (cũng dựa trên năm giới điều
căn bản này) mà được hành trì một cách nghiêm
túc thì hạnh phúc tối thượng, tức Niết-bàn, là
điều có thể đạt được, không hư dối vậy.
Hạnh phúc ở đây cần phải được hiểu theo từng cấp độ, từng hoàn cảnh
và từng cá nhân cảm thọ nó trong từng điều kiện
riêng biệt. Kết quả của năm giới là công năng
của một cuộc sống đúng giới luật của hàng cư sĩ,
đệ tử tại gia của đức Phật; còn Niết-bàn- tức
hạnh phúc tối hậu- tất nhiên đòi hỏi một sự tu
tập nhuần nhuyễn ba pháp giới-định-tuệ, ở đó
giới định tuệ đã vỡ tan và hoà nhập với tự thân
hành giả, tạo nên một thể thống nhất giữa nhân
và pháp. Niết-bàn là kết quả của sự hoà nhập
hoàn toàn giữa pháp tu và người tu, giữa người
chứng và qủa chứng. Niết-bàn của Phật Giáo vượt
lên trên mọi suy tư logic, mọi cảm thọ bình
thường. Nó là thể hiện trọn vẹn của một cuộc
sống từ bi, trí tuệ, vô ngã, vị tha.
THÍCH VIÊN TRÍ
===========

[1] Câu chuyện Triết Học, Will Durant, Bửu
Dích dịch, Tu Thư Vạn Hạnh, 1971
[2] Sđd.
[3] Trung Bộ Kinh, Kinh Thánh Cầu, HT. Minh
Châu dịch
[4] Trường Bộ Kinh, Kinh Sonadana, HT. Minh
Châu dịch
[5] Kỷ sở bất dục vật thí ư nhơn (Khổng Tử)
[6] Câu Chuyện Triết Học, Will Durant, Bửu
Dích dịch, Tu Thư Vạn Hạnh xuất bản
[7] Thiền Học Trần Thái Tông
|