MỘT CÁI NHÌN BAO QUÁT

VỀ ĐẠO PHẬT NGÀY NAY

Hoàng Phong

 

Thống kê vào đầu thế kỷ XX, một cách chính xác là vào năm 1900, số người theo Phật giáo trên thế giới ngang hàng với toàn thể số người theo Ki-tô giáo, và hơn hẳn số người Hồi giáo. Nhưng ngày nay, một trăm năm sau, tức vào đầu thế kỷ XXI, số người Phật giáo chỉ trên dưới 400 triệu. Trong khi ấy có đến hai tỷ người chịu phép rửa tội, 1,3 tỷ người Hồi giáo và 830 triệu người Ấn Độ giáo. Phật giáo tụt xuống hàng thứ tư. Tại sao lại như thế?

Tương lai của Phật giáo sẽ đi về đâu? Vượt qua những thử thách và khó khăn của thế kỷ XX, Phật giáo phải đương đầu với những thử thách mới, những khó khăn mới đang ló dạng ở chân trời, đó là sự hấp dẫn và mê hoặc của những giá trị vật chất, biểu tượng của nền kinh tế tư bản.

Thế kỷ XX là một thế kỷ biến động và tai hại cho Phật giáo nói riêng và cho cả Ki-tô Chính thống giáo (Orthodoxe) trên lãnh thổ Xô-viết nữa. Những luồng tư tưởng và cải cách xã hội trong thế kỷ XX đã ảnh hưởng đến các truyền thống tinh thần như Ki-tô Chính thống giáo tại Nga và nhất là Phật giáo tại các vùng đất Á châu như Trung Quốc và các nước Đông Dương.

Phật giáo ngày nay cho thấy nhiều dấu hiệu hồi sinh, nhất là đã tìm thấy một mảnh đất mới, còn trống trải và đầy hứa hẹn. Mảnh đất đó chính là mảnh đất Tây phương, cực kỳ phát triển về khoa học, triết học và văn hoá. Trên vùng đất mới ấy, Phật giáo đã và sẽ phát triển rất nhanh, có thể nói đó là một “thừa Phật giáo mới” được thành lập, xây dựng trên một nền móng vững chắc về khoa học và triết học, phù hợp với những lo âu của con người trong thời đại mới, biết ý thức về vị trí của mình trong cộng đồng nhân loại, giữa bối cảnh của môi trường thiên nhiên đang bị tàn phá và biến đổi nghiêm trọng.

Tuy nảy mầm trên vùng đất phương Tây, nhưng Phật giáo ngày nay còn phải đương đầu với những thách đố của những giá trị vật chất và những quyến rũ của nền kinh tế tư bản ngay trên các phần đất Á châu, lãnh địa nghìn năm của Phật giáo.

 

 

Vài nét về đạo Phật ngày nay

Qua lịch sử, vào thời kỳ vua A Dục, tức thế kỷ thứ III trước Tây lịch, mặc dù Phật giáo đã được truyền bá trong các vùng Cận Đông, Hy Lạp và cả Ai Cập, nhưng cho đến nay, Phật giáo vẫn chưa hề bành trướng rộng rãi bên ngoài ranh giới phía Tây của con sông Indus. Phật giáo Trung Quốc thu mình phía sau những bức tường kiên cố, Phật giáo Việt Nam thì phía sau những luỹ tre xanh, và Phật giáo các nước theo Phật giáo nguyên thuỷ là chung quanh các Tăng đoàn trong các chùa chiền nơi thanh tịnh. Trong lúc đó, các nhà truyền giáo Ki-tô La Mã lan tràn khắp các miền đất Mỹ châu, Phi châu và Á châu qua các kế hoạch và các tổ chức chặt chẽ.

Thật sự có bao nhiêu người theo Phật giáo trên thế giới? Sự tương quan giữa Phật giáo và các tôn giáo khác ra sao? Các câu hỏi này lêu lên nhiều khó khăn cho các chuyên gia về tôn giáo, nhất là phải xác định tổng số Phật tử trên thế giới. Nếu người mẹ là Do Thái giáo, đứa bé sinh ra đương nhiên sẽ theo Do Thái giáo; đối với Hồi giáo, đứa con theo đạo của cha; người Ấn Độ giáo khi sinh ra được xếp ngay vào giai cấp muôn đời của họ trong xã hội; người Ki-tô giáo thì chịu phép rửa tội; người Phật giáo quy y Tam bảo (tức quy y Phật, Pháp và Tăng).

Nhưng người theo Phật giáo chỉ quy y khi họ bắt đầu hiểu được ý nghĩa của các giới luật phải tuân theo, như không trộm cắp, sát sinh… tức sớm nhất là vào khoảng bảy tuổi trở đi. Người theo Phật giáo hoàn toàn tự do, có thể từ bỏ bất cứ lúc nào các lời nguyện khi quy y; trái lại, phép rửa tội là một quy định cho suốt đời. Tính cách khoan dung, tự do và tự nguyện của Phật giáo gây khó khăn không nhỏ cho việc kiểm định số Phật tử trong xã hội, nhất là trong các quốc gia có nhiều truyền thống tinh thần khác nhau.

Vấn đề thống kê lại càng khó khăn hơn nữa vì các trào lưu tôn giáo của các vùng Á châu chẳng những không chống đối nhau, không loại bỏ lẫn nhau, mà lại hoà đồng và hội nhập với nhau. Đối với các người theo Do Thái giáo, Hồi giáo hay Ki-tô giáo, họ không được dính líu với các tôn giáo khác, không được phép “ba phải”. Trái lại, người Nhật chẳng hạn, có thể vừa là Thần giáo (Shinto) vừa là Phật giáo; người Việt Nam, người Trung Quốc, người Hàn Quốc… có thể vừa là Phật giáo, vừa là Lão giáo.

Mặc dù ý thức được những khó khăn trong việc thống kê như vừa trình bày trên đây, các chuyên gia Tây phương về tôn giáo đều đồng ý với nhau và ước tính có khoảng 350 triệu đến 450 triệu Phật tử trên toàn thế giới, con số trung bình thường được nêu lên là 400 triệu.

 

 

Phật giáo và biên giới quốc gia

Một phần ba người Phật giáo trên thế giới thuộc Nam tông hay Tiểu thừa (Hinayana), còn gọi là Phật giáo Nguyên thuỷ (Theravada). Hai phần ba thuộc Phật giáo Bắc tông hay Đại thừa (Mahayana). Kim cương thừa Phật giáo (Vajrayana) chỉ đại diện cho 1/30 số người Phật giáo.

Sự phân bố theo tỷ lệ trên đây không tương quan với tính cách thu hút của các học phái, nhưng liên hệ mật thiết hơn với tính cách địa phương, tức biên giới quốc gia. Đại thừa Phật giáo phát triển trong các quốc gia đông dân như Trung Quốc, Nhật Bản…

Trái lại Kim cương thừa giới hạn trong các nơi thưa dân như Tây Tạng, Bhutan, Nepal và Mông Cổ. Tuy rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ đại diện cho 1% người Phật giáo, nhưng với uy tín của Ngài, người Tây phương vẫn nhìn Ngài như người đại diện cho toàn thể Phật giáo.

Theo lịch sử, Phật giáo phát triển trong những vùng văn minh trồng lúa gạo và trà, cũng giống như Ki-tô giáo phát triển trong những vùng văn minh sản xuất lúa mì và rượu nho. Phật giáo phát triển trong các vùng châu thổ sông Hoàng Hà và Trường Giang ở Trung Quốc, trong vùng châu thổ sông Hồng ở Bắc Việt, và dọc theo sông Mê Kông thuộc các nước Thái Lan, Lào, Campuchia và vùng Nam Việt Nam. Trong các vùng trồng lúa phì nhiêu và đông dân của Myanmar, chẳng hạn như Mandalay, Phật giáo phát triển rất mạnh, chùa chiền đồ sộ xây dựng khắp nơi, nhiều chùa có đến hơn 2.000 nhà sư xuất gia và tu học.

Các chuyên gia Tây phương ước lượng trong ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào, có 130 triệu người theo Phật giáo. Phật giáo Lào và Campuchia nghiêng về Nam tông, trái lại Phật giáo Việt Nam phần lớn thuộc Bắc tông. Phật giáo trong các vùng Á châu đôi khi còn phảng phất một vài nét rơi rớt từ những phong tục và tín ngưỡng lâu đời trong dân gian. Người Myanmar e sợ thần Nat, người Thái thờ thần Phi, người Campuchia sợ các ông chằn Neakta, người Việt Nam giữ tập tục thờ cúng tổ tiên và các tín ngưỡng dân gian khác. Tại Việt Nam, Phật giáo phát triển ở các vùng đồng bằng, trong khi đó trên các vùng cao nguyên, những bộ tộc ít người vẫn thờ các thần linh (Animisme).

Trong khi Phật giáo trong các vùng Á châu mang nặng tính cách dân gian, thì Tây phương lại định nghĩa Phật giáo như một tôn giáo vô thần, và chính khía cạnh vô thần đó của Phật giáo đã đặc biệt thu hút họ. Phật giáo Tây phương nghiêng nhiều về khoa học và triết học cũng như các phương pháp tu tập rất rốt ráo của Thiền học và Kim cương thừa.

Có thể nói là Phật giáo Tây phương đang dần dần biến thành một “thừa Phật giáo mới” mang nhiều đặc tính triết học và khoa học. Nước Anh công nhận Phật giáo là một nền triết học toàn vẹn, trong khi đó nước Pháp chỉ xem Phật giáo như một tôn giáo.

Xem Phật giáo là một tôn giáo có lẽ đúng hơn và thiết thực hơn là một nền triết học khô khan. Một nền Phật giáo mang quá nặng tính cách triết học và khoa học cũng có thể đánh mất phần nào sắc thái thiêng liêng của một tôn giáo. Phật giáo Tây phương chỉ đại diện cho khoảng 2% Phật tử trên thế giới, nhưng họ rất tích cực và đi rất xa trên con đường tu tập.

 

 

Một trường hợp điển hình về Phật giáo phương Tây

Tại Pháp, tín ngưỡng có tính cách tự do và cá nhân, được luật pháp bảo vệ, không ai và không có cơ quan nào có quyền điều tra hay thống kê. Các ước tính của Bộ Nội vụ và Tổng hội Phật giáo Pháp cho biết, có khoảng 600.000 Phật tử, một nửa số này là những người di dân gốc Á châu, một nửa còn lại là những người gốc Pháp.

Ngoài số người đã quy y như vừa kể còn có năm triệu người Pháp xem Phật giáo như một tôn giáo gần gũi nhất với họ. Các người Phật giáo gốc Tây phương nghiêng hẳn về Phật giáo Tây Tạng, có lẽ nhờ uy tín của Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhất là nhờ các vị thầy Tây Tạng đi thuyết giảng khắp nơi rất giỏi. Sau Phật giáo Tây Tạng, người Tây phương bị thu hút bởi các trường phái Zen của Thiền tông.

Thiền tượng trưng cho trạng thái trong sáng và an bình, hoá giải những lo âu và căng thẳng tinh thần của con người trong các xã hội tân tiến ngày nay. Cách tu tập đơn giản nhưng thiết thực trong việc đem lại một cuộc sống an bình, tỉnh thức của Thiền tông cũng đặc biệt thu hút người Tây phương.

Nếu không thể biết đích xác số người Phật giáo trên đất Pháp và Âu châu, thì trái lại dễ nhìn thấy hơn địa vị xã hội của họ: phần lớn họ thuộc vào tầng lớp “trung lưu”, trong lứa tuổi “trung bình”, tức không già cũng không quá trẻ, sinh sống trong các vùng thành thị. Địa bàn sinh hoạt của họ rất đa dạng, 80% là người trí thức, phần đông có tú tài và cộng thêm bốn đến năm năm đại học và hơn nữa.

Nói chung, Phật giáo đã hội nhập một cách chặt chẽ trong xã hội Pháp nói riêng, trong các xã hội Tây phương nói chung, và đang phát triển rất nhanh. Trên đài truyền hình của Chính phủ Pháp vào mỗi sáng Chủ nhật đều có chương trình về Phật giáo và phần nội dung của chương trình hoàn toàn do Tổng hội Phật giáo Pháp đảm trách.

 

 

Phật giáo ngày nay đi về đâu?

Ngoài những giới luật phải chấp hành trên phương diện đạo đức, chẳng hạn như không sát sinh, không trộm cắp, không nói dối… người Phật tử không bắt buộc phải tuân theo những nghi lễ gò bó nào cả. Họ có thể đến chùa vào ngày rằm và ngày ba mươi mỗi tháng, nhưng không có tính cách bắt buộc. Người Phật tử nông thôn đến chùa và lễ Phật thường xuyên hơn những Phật tử sinh sống trong các thành phố lớn.

Trong khi đó, các tôn giáo khác đòi hỏi tín đồ phải chấp hành những nghi lễ khắt khe hơn, phải đến dự lễ tại giáo đường: người Do Thái giáo vào ngày thứ Bảy, người Ki-tô giáo vào ngày Chủ Nhật, người Hồi Giáo vào ngày thứ Sáu. Việc tu tập thiếu chặt chẽ của người Phật tử tại gia cũng là một điểm yếu, không giúp họ đến gần hơn với Giáo pháp và Tăng đoàn.

May mắn thay, trên đất nước Myanmar vẫn còn có 300.000 nhà sư xuất gia, tức gần ngang hàng với tổng số tất cả giáo sĩ Ki-tô trên toàn thế giới. Thái Lan cũng hãnh diện có một Tăng đoàn hơn 300.000 vị. Ngày nay, ta vẫn còn thấy các nhà sư đi chân đất, ôm bình bát thứ lớp đi khất thực ở Myanmar và trong các vùng nông thôn Thái Lan.

Nhưng các thành phố lớn, phồn hoa và nhộn nhịp, chẳng hạn như Bangkok, quang cảnh các nhà sư vừa tụng kinh vừa chậm rãi đi khất thực vào lúc hừng đông không còn nữa. Ta hãy nhìn vào một thành phố lớn của địa cầu là thành phố Trùng Khánh (Trung Quốc) với 31 triệu dân, ngang hàng với dân số của cả nước Canada, ta sẽ thấy rằng trong khu rừng những toà nhà chọc trời đó, không dễ gì tìm thấy một mái chùa. Mức sống của người dân trong các nước Á châu gia tăng gấp đôi mỗi mười năm. Giá trị vật chất thật hấp dẫn, lắm khi lấn át cả lương tri con người.

Tương lai của Phật giáo sẽ đi về đâu? Vượt qua những thử thách và khó khăn của thế kỷ XX, Phật giáo phải đương đầu với những thử thách mới, những khó khăn mới đang ló dạng ở chân trời, đó là sự hấp dẫn và mê hoặc của những giá trị vật chất, biểu tượng của nền kinh tế tư bản. Tâm nguyện của người Phật tử chọn một lối sống đơn sơ, đạm bạc và lương thiện khi quy y có còn duy trì và giữ được một chút giá trị nào hay chăng?

 

Hoàng Phong

(Theo Văn Hóa Phật Giáo)

 

 

 
 
simple stats
lượt đọc kể từ Mùa Phật Đản 2552 - 2008