ÐÀO TẤN VỚI LINH PHONG
TỰ
VÀ TÊN HIỆU MAI TĂNG
LỘC
XUYÊN ÐẶNG QÚY ÐỊCH

Cụ Ðào
Tấn, tự Chỉ Thúc, hiệu Mộc Mai và Tô Giang, sinh
ngày 27 tháng 2 năm Ất Tỵ (6-4-1845) tại làng
Vinh Thạnh phủ Tuy Phước (nay là thôn Vinh Thạnh
xã Phước Lộc huyện Tuy Phước). Trúng Cử nhân
khoa Ðinh Mão, Tự Ðức thứ 20 (1867). Quan chức
đến Hàm Hiệp Biện Ðại Học sĩ, phẩm Tùng nhất,
tước Vinh quang tử, kiêm lãnh Thượng thư bộ Công.
Về hưu năm Giáp Thìn, Thành Thái 16 (1904). Tạ
thế tại Vinh Thạnh ngày rằm tháng bảy năm Ðinh
Mùi Thành Thái 19 (23-8-1907), thọ 63 tuổi ta.
Trở lên
là đôi nét sơ lược thân thế ông quan lớn họ Ðào.
Và, nếu chỉ có thế thì vị tất cụ Ðào Tấn ở Vinh
Thanh đã lưu danh thiên cổ. Sở dĩ cụ được các
nhà nghiên cứu Văn Học Nghệ Thuật lâu nay xưng
tụng là tác giả lỗi lạc của dòng văn học trình
diễn, là nhà văn hóa lớn của dân tộc có tầm cỡ
quốc tế chính nhờ ở sự nghiệp soạn tuồng hát Bội,
dạy hát Bội, hoạt động nhằm phát triển hát bội
đến mức cực thịnh. Tư tưởng chủ đạo hướng dẫn
ngôn hành của cụ, thể hiện rõ nét qua tác phẩm
cụ (gồm văn thơ từ tuồng), là triết lý hữu vi
của Nho giáo và biện chứng giải thoát của Phật
giáo. Ở đây tôi chưa bàn đến dấu ấn của hai
nguồn tư tưởng trên trong tác phẩm cụ mà chỉ nói
đến cái hiện tượng biểu thị sự liên hệ mật thiết
giữa ông quan lớn mà cũng là nhà văn hóa lớn Ðào
Tấn với Thiền môn. Tức là nói đến ý nghĩa từ
Tiểu Linh Phong Mai tăng và các nguyên ủy khiến
cụ chọn nhóm từ này làm đạo hiệu vừa bút hiệu
cho chính mình.
Như trên
đã nói cụ Ðào Tấn ngoài hai tên hiệu Mộng Mai và
Tô Giang, còn một biệt hiệu nữa là Tiểu Linh
Phong Mai Tăng, gọi tắt là Mai Tăng. Biệt hiệu
này cụ thường dùng để tự xưng trong những bài
thơ nói về mình và dùng ký dưới những trước tác
của mình mà ngày nay ta còn thấy được tự tích
trên tấm hoành.
HƯƠNG THẢO THẤT
MAI TĂNG
THÀNH THÁI ẤT VỊ XUÂN (1895)
Tự tích
dưới bài thơ Mai Tăng tức chiếu đề dấu chân dung
chụp tại bộ Công năm 1903 và ký dưới bài Linh
Phong tự ký. Theo ngữ nghĩa thì Linh Phong Mai
Tăng có nghĩa là Sư Mai ở núi Linh, còn từ Tiểu
đứng trước bốn từ kia hàm ý khiêm tốn, cả năm từ
có nghĩa "Mai tăng, nhà Sư tầm thường ở núi Linh".
Núi Linh
- Linh phong - là tên ngọn núi nằm phía đông dãy
Bô Chinh đại sơn. Sơn hệ này, tục gọi hòn Bà,
nằm giữa huyện Phù Cát, chạy dài từ quốc lộ 1
phía tây đến giáp biển phía đông, gần 20 km
đường chim bay. Lưng chừng ngọn Linh phong có
ngôi chùa cổ từng được chúa Nguyễn Phúc Chú (Ninh
vương) ban biểu sắc tứ vào năm Qúy Sửu 1732.
Người khai sơn ngôi Linh Phong Tự là sư Lê Ban,
tục gọi Ông Núi (Sơn Ông), từng được chúa Ninh
ban hiệu là Tịnh Giác Thiện Trì Ðại Lão Thiền Sư
cùng một lúc ban biển sắc tứ cho chùa; chúa
Nguyễn Phúc Khoát (Võ vương) mời ông về triều
ban cho pháp phục vào năm Tân Dậu (1740). Vua
Minh Mệnh ban thêm pháp phục để thờ ông và ban
bạc tu bổ chùa vào năm Bính Tuất (1826). "Sư Mai
ở núi Linh" nhất định có liên hệ với ngôi cổ tự
này.
Xét "Tiểu
sử cụ Ðào Tấn 1845-1907" do con trai thứ của cụ
là Ðào Nhữ Tuyên soạn đề ngày 17 tháng 8 năm Bảo
Ðại thứ 18 (1943) thì: "...sau khi đức Dục
Tôn Anh Hoàng đế (tức vua Tự Ðức) thăng hà rồi,
quyền thần lộng bính, cụ bỏ quan về phụng dưỡng
song đường. Triều đình nghị giáng tứ cấp, năm
Kiến Phước nguyên niên (1883) định đưa cụ cố ông
và hộ cụ cố bà lên chùa Linh phong (Phù Cát -
Bình Ðịnh) lánh loạn nương thân, năm Ðồng Khánh
nguyên niên (1886) quan tỉnh Bình Ðịnh cử cụ
Thượng tá Tỉnh vụ Bình Ðịnh, chưa mấy ngày vâng
đức Cảnh Ðôn Thuần Hoàng đế (tức là vua Ðồng
Khánh) chuẩn triệu lai kinh Tham tá Các vụ..."
và bài Linh Phong tự ký có đoạn viết: “Kiến
Phúc Hàm Nghi niên giám, Tấn khí quan nam qui,
thác ư thiền dĩ tị loạn, lam dư trúc trượng,
tằng ư thử sơn thể tự lưu biên. Cổ nhân hữu nhất
tuế sơn cư quá bán, Tấn ư thử thời tự chi hĩ!”
Dịch: “Giữa niên hiệu Kiến Phước - Hàm Nghi,
Tấn tôi bỏ quan về (nhà ở phía) nam (Kinh đô),
gởi thân nơi cửa Phật để tránh loạn, kiệu chàm
gậy trúc thường đi lại giữa núi này (Linh Phong)
và chùa này (Linh Phong tự). Người xưa mỗi năm ở
núi quá nửa (thời gian), Tấn tôi lúc bấy giờ
cũng tương tự như vậy!” (2)
Qua hai
tư liệu trên ta biết được mấy sự kiện: Sau khi
Tự Ðức chết (19-4-1883) cụ Ðào Tấn đang thọ hàm
Hồng lô Tự khanh phẩm chánh tứ (4-1) vẫn làm Phủ
Doãn Thừa Thiên phẩm chánh tam (3-1) thì bỏ quan
về nhà ở Vĩnh Thạnh bị điều nghị phạt giáng bốn
cấp. Gặp tang cha rồi gặp Văn thân khởi dấy nên
cùng với mẹ lên nương náu tại chùa Linh Phong -
Phù Cát hơn nửa năm giữa 1885-1886. Ðồng Khánh
lên ngôi ngày 14-8-1885 hạ chỉ mời cụ về Kinh
giữa năm sau, Ðồng Khánh nguyên niên 1886, cụ về
tới triều được cử giữ chức Tham Biện (4) tại Nội
các. Vậy là cụ đã có hơn nửa năm hoặc gần một
năm ở tại chùa Ông Núi trên Linh Phong để tránh
loạn.
Liên hệ
đến sự cố Văn thân khởi nghĩa tại Bình Ðịnh,
nhiều tư liệu đều đã cho biết sau khi Nguyên
soái Mai Xuân Thưởng phụng chiếu Cần vương của
vua Hàm Nghi thì có cử người đến mời cụ nhập
đảng. Cụ lấy cớ đang thọ tang cha và còn mẹ già
phải phụng dưỡng nên từ chối. Sợ ở lại nhà không
yên, cụ phải lánh lên chùa Ông Núi, nên cho
người bí mật đưa mẹ lên chùa ở với cụ. Ðể tránh
sự rắc rối xảy ra từ phía Văn thân, cụ đã "đầu
Phật". Có điều cụ "đầu Phật" mà tôi ngờ rằng cụ
chẳng "đầu Sư", tức là tự mình đầu Phật, tự mình
làm tăng. Tôi vừa nói cụ Ðào Tấn "tự mình đầu
Phật, tự mình làm tăng" không phải chẳng có cơ
sở. Thông thường một người thế tục muốn làm tăng
phải trải qua các chặng đường quy y, thọ giới,
cầu pháp. Dẫu cho cụ lúc bấy giờ đã 40 tuổi, đã
có vợ có con nhưng nhờ có căn bản Hán học mà đã
thâm nhập Phật học, được bổn sư cho miễn thọ
giới Sa di thì cũng phải thọ đại giới Tỳ kheo
mới làm tăng được. Khi quy y thì được bổn sư đặt
cho pháp danh (tên đạo). Khi thọ giới - cầu pháp
thì được vị thầy thế độ đặt cho đạo tự (tên tự
trong đạo) và đạo hiệu (tên hiệu trong đạo).
Pháp danh của đệ tử thường chỉ có hai chữ mà chữ
khởi đầu tiếp theo chữ khởi đầu của bổn sư, cả
hai đều nằm trong một bài kệ của một dòng Thiền
đã có sự truyền thừa ở nước ta. Ðạo tự, đạo hiệu
do vị sư thế độ đặt thường được khởi đầu bởi một
chữ chung cho đệ tử vị ấy, tự hay hiệu thường
cũng chỉ có hai chữ, cả hai đều nói lên cái ước
vọng thăng tiến về trí tuệ và về đạo hạnh mà
thầy muốn gởi gấm nơi học trò mình. Xét năm chữ
"Tiểu Linh Phong Mai Tăng" thì không phải đạo
hiệu, đạo tự, lại càng không phải pháp danh. Tôi
đã đọc kỹ bài "Tiểu sử cụ Ðào Tấn" đã dẫn trên
kia, cùng thần chử, thần vị của cụ hiện thờ tại
nhà thờ cụ ở Vĩnh Thạnh thì ngoài tên hiệu Mai
Tăng không hề thấy có pháp danh. Tôi cũng nghĩ
nếu cụ đã quy y từ nhỏ, thì lúc lánh mình ở chùa
Ông Núi, muốn thọ giới cụ tức thì thầy thế độ
không ai khác hơn vị sư trụ trì tại chùa. Có thế
mới giữ kín được hành tung của cụ. Tôi cũng muốn
biết hành trạng của vị sư này, để thông qua đó
đoán định thử có phải vị thầy thế độ cho cụ
chăng, bởi lẽ một trí thức khoa bảng, am hiểu
Thiền lý, đã từng làm đến ấn quan hàm chánh tứ
như cụ không thể không chọn minh sư để cầu pháp.
Ðiều mong muốn ấy của tôi hiện nay và có lẽ mãi
sau này cũng khó thỏa mãn bởi chùa Ông Núi đã bị
thiêu hủy trong chiến tranh vừa qua, đến long vị
của lịch đại trụ trì từ tổ khai sơn Lê Ban đến
vị Hoà thượng sau cùng thị tịch trong chín năm
kháng Pháp cũng không còn thì nói chi đến tự phổ,
ngữ lục v.v... nếu có.
Không
tìm được từ phía chùa Ông Núi thì thử tìm trong
tác phẩm cụ xem sao. Tôi đọc lại những gì cụ đã
viết mà tôi hiện có thì chỉ thấy ở bài Linh
Phong tự ký có nhắc đến "tự tăng" và ở bài thơ
Phỏng Linh Phong tự, qui chu phong vũ đại tác
trong tập Tiên nghiêm Mộng Mai ngâm thảo do hai
bà con gái của cụ ký lục thấy có câu "Khước lạ
Thiền phòng tiếu bất lưu", ngoài ra chưa thấy ở
đâu nữa.
Ở bài
Linh Phong tự ký, chữ tự tăng được lặp lại hai
lần trong một đoạn sau đây:
“Sơn cư vô sự,
nãi sưu cầu Sơn Ông di tích, vô bi ký khả trưng,
chỉ tầm đắc tàn chi tệ biên, hữu biên niên kỷ
nguyện giả... Hựu đắc Sơn Ông thử thuyên Pháp
Hoa kinh giải nhất tạng, nhị bách du bản, dữ
ngọc thạch đề chương... phàm thất, khỏa, triệu
cực cổ. Tấn toại phất thức, tàng ư tiểu khiếp,
tịnh dữ Pháp Hoa kinh tạng, phú tự tăng trân thủ
chi. Diệc hữu Sơn Ông đề vịnh, mặc tích tam sổ
chi, tự tăng bất tri, dĩ thủ nhi hồ họa tượng hĩ!
Tấn bối triễn họa tương quan chi, đa phân tích
bất hiểu, thậm khả tích dã!”
Dịch: “Ở trong
núi không việc gì làm, (Tấn tôi) bèn tìm tòi di
tích của Ông Núi, không văn bia làm chứng, chỉ
tìm được giấy rách sách nát có chép năm ghi
tháng... Lại được hơn hai trăm tấm ván khắc trọn
bộ "Pháp Hoa kinh giải", những mộc bản này do
chính tay Ông Núi sắp xếp, cùng khuôn dấu bằng
đá quí... được bảy cái khắc kiểu chữ triện rất
xưa. Tấn tôi bèn phủi lau sạch bụi, đặt vào tráp
nhỏ, cùng với mộc bản bộ kinh Pháp Hoa, giao cho
tự tăng cất giữ cẩn thận như cất giữ vật quí.
Cũng có đôi ba tờ giấy có dấu chữ Sơn Ông đề
vịnh nhưng tự tăng chẳng biết, đã đem bồi bức vẽ
tượng!... Tấn tôi lật bề lưng bức tượng mà xem
thì phần lớn chữ hiện rõ nhưng chẳng hiểu được,
rất đáng tiếc!” (2)
Tự tăng
tức "sư ở chùa", trỏ vị sư trụ trì chùa Linh
Phong lúc ấy chứ chẳng ai khác. Ở bài thơ "Phỏng
Linh Phong tự..." câu "Khước tạ Thiền phòng tiếu
bất lưu" nếu dịch theo nghĩa đen thì "Từ giã
phòng sư ở, cười mà chẳng giữ lại" Người từ tạ
ra về là cụ Ðào Tấn, người cười mà chẳng cầm cụ
ở lại là sư trụ trì chùa Linh Phong lúc ấy chứ
chẳng ai khác. Ở cứ liệu trước, tự tăng đã không
biết bảo quản tốt di tích của Ông Núi khiến cụ
phải than phiền. Ở cứ liệu sau "Nhà sư trong
thiền phòng" không biết cầm cụ lại để cụ rời
khỏi chùa thì gặp mưa gió lớn. Tự tăng trước và
nhà sư sau có thể là một người cũng có thể là
hai người khác nhau bởi vì khi cụ lánh mình ở
chùa (giữa 1885-1886) đến lúc cụ trở lại thăm
chùa mà làm bài thơ này (sau khi về hưu - 1904)
cách nhau gần hai mươi năm và tự tăng trước và
nhà sư sau, qua lời kể của cụ mà tôi vừa nói,
thì không thể là đạo sư của cụ được. Hơn nữa,
tuy cụ thường tự xưng "Sư Mai ở Linh Phong",
nhưng từ lúc ở chùa, rồi trở lại làm quan cho
đến khi hưu khi chết cụ không hề xuống tóc,
không mặc nâu sồng, không ăn chay trường, mà vẫn
giữ phong thái, và nếp sống của nhà Nho. Càng
nghiên cứu những sự kiện trên tôi càng nghiêng
về giả thuyết cụ chỉ "đầu Phật" chứ không "đầu
Sư", tự mình làm tăng, tự mình đặt hiệu Tiểu
Linh Phong Mai Tăng. Thông qua tên hiệu này, rõ
ràng cụ muốn tỏ cho đời biết cụ từng có lúc ẩn
tại Linh Phong. Còn mai là tên một loài cây có
hoa có phẩm chất cao quí mà cụ từng ưu ái. Phẩm
chất ấy tương tự như đức tính của bậc quân tử mà
cụ từng tu dưỡng. Chọn mai làm tên hiệu vừa bày
tỏ gốc gác ở làng Nho vừa nói lên ý hướng thăng
tiến tu học. Ðọc bài thơ trích sau đây ta sẽ
thấy cụ trân trọng biết bao ngọn núi ngôi chùa
mà cụ mang tên.
Ðối
với núi và chùa Linh Phong - nơi đã cưu mang cụ
trong những ngày ẩn tu - bằng thơ văn, cụ đã
nhiều dịp bày tỏ lòng biết ơn và tình lưu luyến.
Trong số thơ văn, nói đến chùa Linh Phong đáng
chú ý có bài Linh Phong tự ký, Mai Tăng tiểu
chiếu và Phỏng Linh Phong tự, qui chu phong vũ
đại tác. Năm Quí Mão, Thành Thái thứ 15 (1903),
cụ đang làm Thượng thư bộ Công tại triều, nhân
lúc rảnh cụ soạn bài Linh Phong tự ký. Ðây là
một bài văn xuôi, bằng chữ Hán, dài khoảng 1400
chữ, tác giả đã miêu tả núi và chùa Linh Phong
kể lại tường tận sự tích cùng di tích Ông Núi,
sự tích cùng sự trạng chùa từ lúc khai sơn đến
ngày tác giả ẩn tu tại đây. Tác giả có trưng dẫn
hoành phi và liễn đối của chúa Nguyễn sắc tứ và
ngự đề, cùng điểm xuyết mấy câu đối chính mình
đề vịnh. Cuối bài tác giả viết: “Bộ thư chi
hạ, lược thuật kỳ ngạnh khái; mệnh như Thụy
Thạch Nhữ Tuyên bốc ký chi, vị Linh Phong thiền
tự nhất tiểu thừa, dĩ miễn nhân một, phi vãn dã”.
Dịch: “Nhân rỗi việc sổ sách tại bộ, lược
thuật những nét chính, sai các con là Thụy Thạch,
Nhữ Tuyên ghi lấy, vì chùa Linh Phong là phương
tiện nhỏ đưa người đến giác ngộ (nên phải viết)
để sự tích chùa khỏi bị vùi lấp chứ chẳng phải
làm văn vậy” (2).
Tuy tác
giả nói không dụng ý "làm văn", nhưng giá trị
nội dung và hình thức bài ký này từng được người
đương thời đánh giá cao, được xem như mẫu mực
của thể ký, được phổ biến cả nước dưới hình thức
sao chép. Chính bản chữ Hán mà tôi đang dùng để
viết bài này là bản chép tay của cụ Hà Trì Trần
Ðình Tân (đỗ Cử nhân khoa Ất Mão 1915). Bản cụ
Hà Trì cũng được sao lại từ bản chép tay của cụ
Biểu Xuyên Ðào Phan Duân (đỗ Phó bảng học khoa
Ất Vị 1895). Có người, như nhà cách mạng Hoàng
giáp Nguyễn Thượng Hiền đọc bài ký này rồi khởi
hứng viết nên bài "Mộc y ông thuyết" vừa nhắc
chuyện xưa vừa tán dương tác giả Linh Phong tự
ký.
Cũng
trong năm 1903, mùa hè, cụ có đề một bài thơ
dưới bức ảnh bán thân của cụ. Bài thơ như sau:
MAI TĂNG TIỂU
CHIẾU
Vi tiếu hậu Thiền
kỳ
Phong trần không mãn y
Linh Phong tam thập liễu
Vi kiện thử tăng qui (3)
Thành Thái thập
ngũ niên ngũ thập cửu tuế
Mai Tăng tự đề ư Hoàng cung chi Ðông thự.
Dịch nghĩa:
Bức ảnh nhỏ của
Mai Tăng
Miệng mỉm cười như để lộ vẻ huyền diệu trong đạo
Thiền
Và gió bụi đã bám đầy áo
Chùa Linh Phong đã ba chục năm nay
Chưa thấy sãi này trở về!
Mai Tăng tự đề tại
bộ Công trong Hoàng cung vào tháng cuối mùa hè
năm Thành Thái thứ 15 (1903), lúc 59 tuổi.
Tạm dịch thơ:
MAI TĂNG ÐỀ ẢNH
Miệng cười như lộ
mây Thiền
Mà trên áo bám triền miên bụi đời
Linh Phong ba chục năm trời
Sãi này còn mãi rong chơi chưa về.
Bài thơ
có phong thái Thiền. Có điều lạ là ở câu 3 cụ
bảo cụ xa chùa Linh Phong đã ba mươi năm. Nếu
nhẩm tính từ lúc cụ ẩn tu tại chùa khoảng giữa
năm 1885 đến khi cụ làm bài thơ này mùa hè năm
1903 thì chưa đầy 18 năm. Hay thậm xưng cũng là
một ngôn ngữ Thiền được sử dụng để bày tỏ tính
phá chấp?
Sau khi
về hưu, năm Giáp Thìn Thành Thái 16 (1904), có
lần cụ trở lại thăm chùa Linh Phong. Cụ đi bằng
ghe, từ nhà cụ theo đường nước, dẫn xuống xã
Phước Thuận, vào đầm Thị Nại, rồi men theo bờ
ngự hàm các xã phía đông hai huyện Tuy Phước -
Phù Cát mà ngược lên bắc thì tới gần Kẻ Thử (xã
Cát Chánh). Từ đó rời ghe đi bộ lên chùa chẳng
bao xa. Lượt về cụ cũng đi bằng ghe, rời khỏi
chùa thì gặp mưa to gió lớn. Cụ kể lại chuyến đi
này trong bài thơ sau đây:
PHỎNG LINH PHONG
TỰ QUI CHU PHONG VŨ ÐẠI TÁC
Mai Tăng kim nhật
hựu lai dư
Khước tạ Thiền phòng tiếu bất lưu
Khả ái Sơn Ông vô sở hữu
Chỉ tương phong vũ tống qui chu (3)
Dịch nghĩa:
Thăm chùa Linh
Phong, thuyền về gặp mưa to gió lớn
Ngày nay Mai Tăng lại đến thăm chơi,
Từ giã phòng sư, (sư) cười mà chẳng cầm ở lại,
Ðáng yêu thay trong Núi không có vật gì (tăng),
Chỉ đem gió mưa mà tiễn thuyền (ta) trở về.
Tạm dịch thơ:
Mai Tăng nay lại
đến chùa chơi
Từ giã, chẳng lưu sư chỉ cười
Ông Núi đáng yêu không của cải
Chỉ đem mưa gió tiễn thuyền thôi.
Ðọc lại
câu cuối "Phong vũ tống qui chu, gió mưa tiễn
thuyền về" mà cũng có nghĩa "gió mưa đẩy thuyền
đi về hướng nam" thì gió nầy nhất định là gió
bấc. Gió bấc lại thường thổi về mùa đông. Mùa
đông mưa nhiều thì nước đầm càng sâu, gió bấc
thổi mạnh thì sóng trên đầm càng to. Nếu phong
vũ đại tác xảy ra trên đầm Thị Nại vào mùa đông
thì có nguy cơ làm đắm thuyền cụ, đe dọa đến
tính mạng cụ và những người đồng thuyền. Nếu xảy
ra vào những mùa khác thì nguy cơ ít hơn nhưng
cũng khiến cho người trong thuyền phải trải qua
một phen vất vả và lo sợ. Ấy thế mà cụ đã bình
thản nhẩn nha kể lại sự biến vừa qua, hơn thế
nữa còn xem mưa to gió lớn như một phương tiện
tốt mà Ông Núi đã để cụ rèn luyện tinh thần và
nghị lực. Nếu không có được một công phu hàm
dưỡng cả Tâm học của Nho giáo lẫn Thiền học của
Phật giáo thì dễ gì có được một nhân sinh quan
lành mạnh đến thế?
Trở lại
với nhóm từ "Tiểu Linh Phong Mai Tăng". Nếu viết
được như thế thì thì tăng là danh từ chung, có
nghĩa là nhà sư, thì từ tăng không viết hoa. Nếu
viết tắt "Mai tăng" thì tùy theo nơi mà không
viết hoa như ở bài thơ Tặng Mai tăng do chính
Nam quốc Mai tăng (có pháp phục, có mão tì lư
hẳn hoi) làm tặng mình thì từ tăng không viết
hoa. Nhưng ở những nơi khác như dưới bức hoành
HƯƠNG THẢO THẤT chẳng hạn, thì từ Tăng viết hoa
bởi Mai Tăng đã trở thành tên hiệu của cụ Ðào
Tấn, thuộc loại chữ danh từ riêng. Bạn đọc chớ
cho tôi nhiễu sự. Khổ quá, cũng bởi chữ Hán
không có lối viết hoa, bởi Mai Tăng từng có lúc
tự làm tăng, bởi Mai Tăng thường tự xưng mình là
Mai tăng (với chữ tăng viết thường)... nên tôi
phải dài dòng. Lại nữa, sau khi "hạ sơn" để trở
lại "hoạn lộ", thỉnh thoảng Mai Tăng vẫn xưng là
Mai tăng. Hay Mai Tăng cho rằng mình trở lại làm
quan cũng không khác hành động "thỏng tay vào
chợ" (thùy thủ nhập triền) của Thiền giả đạt đạo?
Vả lại Bồ tát hạnh không phải chỉ để dành riêng
cho tu sĩ xuất gia tu tập và quả vị Bồ tát không
chỉ có tăng sĩ mới đạt được mà cư sĩ tại gia
cũng được phép tu hạnh này và cũng đã có người
đạt quả vị này. Lịch sử Phật giáo từng chép Duy
Ma Cật ở Ấn Ðộ thời Phật tại thế, Bàng Uẩn ở
Trung Hoa và Trần Quốc Toản đời Trần ở nước ta
đều là những cư sĩ tại gia, đều chứng quả vị
trong thập địa Bồ tát. Cho nên cũng không phải
nhọc sức tìm xem Mai Tăng có tên trong Tăng tịch
không? Có được Tòng lâm tỉnh ta xưa nay thừa
nhận là tăng không? Và cũng không cần phải chính
danh cho Mai Tăng mà chỉ nên xem thử Mai Tăng đã
làm được những gì. Việc mà Mai Tăng đã làm thì
nhất định có nhiều nhưng làm mà không mong cho
người biết cũng là một hạnh trong Bồ tát hạnh,
cho nên ngày nay ta chỉ biết được một ít nhờ thư
tịch có ghi chép mà thôi. Ðó là: “Thành Thái
Ất Vị niên, Tấn kị Ðông thự, dĩ sự tấu đạt Tây
cung, dụ thỉnh ân chỉ. Phụng bang xuất nội thảng
ngân thát thập hạnh, mệnh tỉnh thần hiềm khuyến
đồng nhân hội kim, đắc nhược can, đổng suất
trùng tu yên, Ðinh Dậu cửu niên bát nguyệt lạc
thành. Tấn vị năng qui phỏng, nhi tùng cố hương
lai giả, giai vị Linh Phong quang cảnh, hoán
nhiên nhất tâm, khả hỉ khả ủy” (Linh Phong
tự ký). Dịch: “Năm Ất Vị niên hiệu Thành Thái
(1895), Tấn tôi thự Thượng thư bộ Công, đem
chuyện chùa Linh Phong tâu lên Tây cung để cầu
xin ấn chỉ (Tây cung) lệnh xuất kho trong cung
70 lạng bạc, sai đỉnh thần quyên thêm người
trong tỉnh được bao nhiêu thì gộp chung với số
bạc đã ban mà đốc suất việc trùng tu chùa. Tháng
tám năm Ðinh Dậu, nhằm năm thứ 9 niên hiệu Thành
Thái (1897) thì lạc thành. Tấn tôi chưa thể về
thăm nhưng theo lời người làng ta ai cũng nói: "Quang
cảnh chùa Linh Phong nay trở nên sáng sủa và mới
mẻ!" Ðáng mừng! Ðáng yên tâm”! (Trích Linh
Phong tự ký) (2)
Qua cứ
liệu trên, ta thấy rằng từ lúc vận động trùng tu
chùa Linh Phong đến khi lạc thành chỉ trong vòng
hai năm (1895-1897). Công trình thực hiện nhanh
chóng là nhờ có sự tán trợ của bà Thái hậu (Tây
cung) và sự chỉ đạo trực tiếp của bộ sở quan, bộ
Công, mà người đứng đầu là Thượng thư Ðào Tấn.
Lần trùng tu này có qui mô lớn hơn các lần trước,
đẹp đẽ và vững chãi hơn các lần trước, nếu không
bị ngọn lửa chiến tranh thiêu hủy vào năm 1965
thì chắc chắn nó vẫn còn đứng vững tới hôm nay.
Có thể nói mà không sợ lầm rằng nếu không có sự
vận động của cụ Ðào Tấn thì vị tất đã có lần
trùng tu Linh Phong tự nói trên.
Và, việc
thứ hai là bằng văn thơ cụ đã ghi lại sự tích
chùa Ông Núi cùng bày tỏ sở kiến về Thiền đạo,
những văn thơ ấy đã làm phong phú thêm dòng văn
học Thiền trong lịch sử văn học nước nhà.
Với bấy
nhiêu ấy, nhà Nho, nhà văn, nhà nghệ sĩ, ông
quan lớn Ðào Tấn không phải thẹn khi mang thêm
tên hiệu Mai Tăng hoặc tự xưng là Tiểu Linh
Phong Mai Tăng vậy.
LỘC XUYÊN ÐẶNG QUÍ ÐỊCH
Ðặc san LIÊN TRƯỜNG TRUNG HỌC QUY
NHƠN
Xuân Canh Thìn - 2000

CHÚ THÍCH:
1.- Xem "Thư
mục và tư liệu về Ðào Tấn", Vũ Ngọc Liễn chủ
biên, UBKHKTNB, Sở VHTTNB và Nhà Hát tuồng Nghĩa
Bình xuất bản, Qui Nhơn - 1985, tr.7 - tr.9
2.- Xem
"Mai Viên cổ sự" của Lộc Xuyên Ðặng Quí Ðịch.
Văn Lang xuất bản 1994, bài Linh Phong tự ký với
đầy đủ nguyên văn, phiên âm, dịch nghĩa, tr.51 -
tr.65
3.- Trong
"Tiên Nghiêm Mộng Mai ngâm thảo" do hai bà con
gái của cụ Ðào Tấn là Trúc Tiên và Chi Tiên ký
lục, Tịnh Ba phụng sao năm 1964, bản photocopy
lưu trữ tại tủ sách của Lộc Xuyên Ðặng Quí Ðịch
4.- Từ
biện trong các từ ghép Hiệp biện, Tham biện,
Thương biện... còn được thay bằng từ tá nên còn
gọi Hiệp tá, Tham tá, Thương tá. |