Hòa
Thượng PHÁP VĨNH
(1891 - 1977)
Tỳ
kheo Thiện Minh
Hòa
thượng Pháp Vĩnh, pháp danh Dhammasāro, thế danh
Nguyễn Thức, sanh năm Tân Mão 1891 (Thành Thái
năm thứ 3) tại thôn Văn Quang, xã Phước Quang,
huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Ðịnh.
Ngài
sinh ra và lớn lên trong một gia đình Nho giáo
nề nếp, thân phụ là cụ ông Nguyễn Ðình, thân mẫu
là cụ bà Nguyễn Thị Biểu. Song thân Ngài đều là
những cư sĩ mộ đạo thuần thành.
Ngay từ
thuở nhỏ, Ngài đã tỏ ra thông minh có ý chí
hướng thượng, được song thân cho quy y Tam bảo
làm người Phật tử thuần thành tại chùa Khánh Vân,
tỉnh Bình Ðịnh. Ðã nhiều lần, Ngài có ý định
xuất gia tu Phật, nhưng vốn dĩ sống trong gia
đình có truyền thống Nho học chuẩn mực, vả lại
Phật cũng đã từng dạy: "Phụng sự cha mẹ là cúng
dường Như Lai", nên đành giữ trọn chữ hiếu, một
lòng chờ đợi duyên lành.
Mãi đến
năm 1945, xả bỏ hết mọi trần duyên thế sự để
bước vào con đường giải thoát thanh cao. Ngài
quyết định xuất gia theo giáo đoàn Khất sĩ Minh
Ðăng Quang với pháp danh là Thiện Ngộ, làm người
sứ giả Như Lai đi khắp nơi truyền bá đạo mầu.
Trên
bước đường hóa duyên truyền đạo, một duyên may
chợt đến, Ngài được gặp các vị Tăng sĩ của Phật
giáo Nguyên thủy (Theravāda). Qua trao đổi kinh
nghiệm tu tập và giáo lý, Ngài mới nhận ra rằng:
tu học Phật pháp có nhiều phương tiện, nhiều con
đường để đi về một điểm cuối, nên người tu phải
tùy hợp căn cơ để hành trì và chứng nghiệm. Do
đó, một lần nữa, Ngài tạm biệt các huynh đệ đồng
tu ở giáo đoàn khất sĩ, đến cầu pháp thọ giới
bên giáo đoàn Phật giáo Nguyên thủy. Vào dịp này,
có các giới tử theo Hòa thượng Thiện Luật sang
Campuchia tu học đạo pháp, Ngài liền tháp tùng
đi theo, tinh cần tu tập.
Mùa xuân
năm 1950, Ngài được Hòa thượng Visuddhiransi làm
Thầy tế độ thọ giới Tỳ khưu, dưới sự tuyên ngôn
của vị Thầy Yết ma Candavijira, và chư Tăng tham
dự rất đông. Hòa thượng tế độ ban cho Ngài pháp
danh Dhammasāro tức là Pháp Vĩnh. Sau khi thọ
giới Tỳ khưu, Ngài chú tâm hành đạo và làm tròn
phận sự của một đệ tử đối với Thầy Tổ.
Năm
1955, sau 5 năm tu học ở nước ngoài, Ngài được
phép trở về quê hương hoằng dương đạo pháp và
được mời làm thành viên trong Ban Chưởng quản
Giáo hội Tăng Già Nguyên thủy Việt Nam, khi Giáo
hội được thành lập vào năm 1957.
Cuối năm
1957, Giáo hội cử Ngài về quê hương Bình Ðịnh để
hoằng pháp. Nơi đây, từ trước đến giờ chưa có
Phật giáo Nguyên thủy, nên có thể nói Ngài là vị
Tổ đầu tiên đem sắc thái Nam truyền, giáo lý
Phật giáo Nguyên thủy về mảnh đất này, mở rộng
công việc giáo hóa độ sanh. Vốn là người sống
trong địa phương này từ nhỏ đến lớn, Ngài rất
thấu hiểu các phong tục tập quán, nên việc
truyền bá giáo pháp không gặp nhiều trở ngại. Ði
đến đâu, dân chúng, Phật tử đều nhiệt tâm ủng hộ,
quy thuận theo lời giảng dạy của Ngài.
Năm
1958, đức hạnh của Ngài càng được nhiều người
biết đến, tín đồ khắp nơi ngưỡng mộ rất đông.
Trước nhu cầu đó, Ngài cùng Phật tử kiến tạo
chùa Phước Quang tại thôn Văn Quang, xã Phước
Quang, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Ðịnh để tiện
việc giáo hóa và phụng sự tín ngưỡng.
Những
năm sau đó, Ngài tiếp tục duy trì sứ mạng hoằng
dương chánh pháp ngay tại địa phương, đồng thời
mở mang thêm các chùa cảnh trong tỉnh. Năm 1964,
Ngài thành lập Niệm Phật Đường ở thôn An Hòa, xã
Phước Quang, huyện Tuy Phước, Bình Ðịnh. năm
1965, thành lập chùa Huệ Quang, số 16 Nguyễn Huệ,
thành phố Qui Nhơn.
Lúc này,
tuổi Ngài đã cao, thân tứ đại suy yếu dần, nhưng
Ngài vẫn thường xuyên giảng dạy đệ tử, thuyết
pháp cho tín đồ. Nhiều giới tử xuất gia được
Ngài tế độ, dìu dắt nay trở thành những bậc Tăng
tài của Giáo hội trong và ngoài nước.
Ðã đến
lúc duyên cõi này trọn phước, quả cõi khác đón
chờ. Ngài an nhiên thị tịch vào lúc 5 giờ sáng
ngày 25 tháng 12 năm Ðinh Tỵ 1977, trụ thế 86
tuổi, với 32 năm xuất gia hành đạo.
Cuộc đời
và sự nghiệp tu hành phổ độ chúng sinh của Ngài
thật bình dị trong sáng, một niệm vì quê hương,
đất nước, vì đạo pháp, con người. Ngài đã có
công lớn trong việc khai phá, phát triển Hệ phái
Phật giáo Nguyên thủy ở tỉnh Bình Ðịnh, góp phần
bồi đắp cho mảnh đất này sắc thái đa dạng của
ngôi nhà chung Phật giáo Việt Nam ngày thêm
phong phú.
Tỳ kheo Thiện Minh
|