VAI TRÒ TRỤ TRÌ
TUỆ ĐẠT
“Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng
Ra đi
ai cũng nhớ chùa chung,
Mái
chùa che chở hồn dân tộc,
Nếp
sống muôn đời của Tổ tông”.
Mái
chùa không biết tự bao giờ đã trở thành ngôi nhà
chung che chở hồn dân tộc, đó chính là ngôi nhà
tâm linh hướng dẫn con người biết nhân quả đạo
lý, biết sống đạo đức, yêu thương gắn bó với quê
hương đất nước. Nên, chùa là cái hồn dân tộc,
thân thương gần gũi, hòa quyện trong lòng người
dân như máu với thịt, như hơi thở, như bữa ăn
hằng ngày.
Ngôi chùa sở dĩ trở thành một nét văn hóa đặc thù, trở
thành ngôi nhà tâm linh thiêng liêng giữa cuộc
đời bụi bặm khổ lụy này là do vị Trụ Trì. Nếu
như ngôi chùa là linh hồn của dân tộc thì vị Trụ
Trì là linh hồn ngôi chùa. Ngôi chùa có mang
tính nhập thế và hưng thịnh hay không là do đạo
hạnh và tài năng lãnh đạo của vị Trụ Trì.
Phải nói rằng, vị Trụ Trì đóng một vai trò hết sức quan
trọng trong việc thịnh suy của Chánh Pháp. Vị
Trụ Trì là người thay mặt Giáo Hội lãnh đạo Tăng
ni Phật tử tại trú xứ tu học. Nếu vị Trụ Trì là
người đạo cao đức trọng, biết cách quản lý lãnh
đạo ngôi chùa thì ngôi chùa đó sẽ hưng thịnh và
có nhiều đóng góp thiết thực cho làng nước, xã
hội. Ngược lại nếu vị Trụ Trì không hội đủ các
tiêu chuẩn trên thì ngôi chùa chỉ khép kín và
không đóng góp được gì nhiều cho cộng đồng xã
hội và Đạo Pháp. Chúng ta biết rằng lãnh đạo
ngôi chùa là một sứ mạng thiêng liêng của người
làm Trụ Trì, phải gánh vác trên đôi vai trọng
trách tiếp nối chư vị Tổ sư “truyền trì mạng
mạch Phật Pháp”. Gánh vác một trọng trách to
lớn như vậy, người Trụ Trì không thể nào không
trang bị cho mình một kiến thức đầy đủ về cách
làm Trụ Trì.
Một đất nước mà không có lãnh đạo, nước đó sẽ rối loạn, một
gia đình mà không có người chủ chốt thì gia đình
đó không nề nếp. Cũng như thế, một ngôi chùa mà
không có vị Trụ Trì, ngôi chùa đó sẽ đứng yên
không thể thực hiện nổi vai trò hoằng dương
Chánh Pháp. Chính vì vậy, ngôi chùa cần có vị
Trụ Trì lãnh đạo điều hành mọi công việc thì
ngôi chùa mới hưng thịnh, thực hành sứ mạng
hoằng dương Chánh Pháp.
Theo như môn “quản trị học” dạy rằng bất cứ công việc
gì nếu biết tổ chức và quản lý thì công việc đó
rút ngắn được thời gian mà lại gặt hái thành
công gấp nhiều lần. Cũng như vậy, bất cứ một
đoàn thể nào muốn phát triển, hòa hợp, mạnh mẽ
thì điều tiên quyết là phải biết cách tổ chức.
Tự viện là nơi mà đoàn thể Tăng Bảo cư trú, cùng tu, cùng
học trong phép “lục hòa” của đức Phật. Đã là một
đoàn thể đông người tất nhiên cần có hệ thống tổ
chức một cách khoa học thì đoàn thể Tăng chúng
mới hưng thịnh, hòa hợp được. Như chúng ta biết:
đạo Phật tồn tại hơn hai ngàn rưỡi năm cho đến
nay vẫn đang phát triển và thịnh hành trong
nhiều quốc gia trên thế giới. Có được điều này
là do đạo Phật đã có một cách tổ chức đúng đắn.
Đạo Phật trải qua mấy ngàn năm phát triển khắp
năm châu, phát triển đến đâu đều có hệ thống tổ
chức đến đó.
Các Tự viện Phật giáo ngày nay ở Việt Nam nhìn chung đều có
một hể thống tổ chức nghiêm ngặt từ trên xuống
dưới, nhưng chỉ có một điều, sự tổ chức chưa
nhuần nhuyễn, chưa nhịp nhàng, chưa đúng phương
pháp khoa học, chính vì vậy mà đạo Phật chúng ta
chưa có sự phát triển mạnh mẽ như các tôn giáo
khác. Đây chính là một điểm yếu mà chúng ta cần
nhìn nhận và chấn chỉnh thì đạo Phật chúng ta
mới có thể sánh vai cùng các tôn giáo lớn trên
thế giới. Muốn khắc phục điều này các vị Trụ Trì
Tự Viện nên tìm hiểu và áp dụng theo hệ thống tổ
chức và quản lý truyền thống của chư vị Tổ sư
từng hành trì, đồng thời nghiên cứu thêm tri
thức về môn Quản trị học - là môn học đang được
giảng dạy ở các trường Đại học thì việc tổ chức
quản lý của Tự Viện sẽ gặt được nhiều thành công
hơn.
1,
Tìm hiểu thuật ngữ “Chùa”:
- “Chùa” còn gọi là “Tự viện”, Tịnh xá, Tịnh thất, Niệm Phật đường.
- “Chùa” là thuật ngữ chung cho tất cả những cơ sở Phật giáo, là
nơi có thờ Phật, Bồ tát…, nơi cư ngụ, sinh hoạt
lễ bái của Tăng chúng, nơi diễn ra tất cả hoạt
động phục vụ cho nhu cầu tín ngưỡng tu học của
Tăng ni và tín đồ Phật giáo.
- Trong thuật ngữ Phật học ta thường gặp từ “Pháp vương gia”
tức là nhà của Pháp vương (ám chỉ Phật), chùa
được xem như nhà của Phật, người giữ nhà của
Phật là Trụ Trì.
- Một vài thuật ngữ tương đương với “Chùa” là Già lam (Đại Già lam,
Trung Già lam, Tiểu Già lam), Tăng già lam.
2, Ý nghĩa “Trụ Trì”:
Lúc phật giáo mới truyền vào Trung Quốc, các nhà truyền giáo
thường dùng hình thức truyền đạo từ người thầy
trực tiếp truyền cho đệ tử, hoặc ở nơi hang đá
tu hành v.v… chưa có chức danh Trụ Trì. Mãi đến
đời Đường Trung Quốc, Phật giáo Thiền tông hưng
thịnh, người học Thiền ngày một đông nên tổ Bách
Trượng mới đặt ra chức “Trụ Trì” để điều hành
các Phật sự của Thiền viện mà Pháp sư Nghiêm
Truyền phụng mạng Tổ Bách Trượng làm Trụ Trì
với ý nghĩa là người có đầy đủ quyền năng để
điều hành tất cả các phật sự ở Thiền viện.
Như vậy chức danh Trụ Trì có từ đó. Đến đời Tống
thì chức vị “Trụ Trì” được áp dụng rộng rãi tại
các tự viện cho đến ngày nay.
Chữ “Trụ Trì” mang ý nghĩa “ Trụ Pháp Vương Gia, Trì Như Lai Tạng”.
- Thế nào là “ Trụ Pháp Vương Gia”? Câu này nhằm nhắc nhở hành giả
với vấn đề giáo pháp đã cảm nhận nơi tự thân thể
hiện, ngôn hạnh tương ưng, các pháp thế và xuất
thế ứng dụng trong đời sống hàng ngày qua thân
khẩu ý xuất phát từ “trí tuệ hành” nên tự tại
các pháp và có thể an nhiên với vấn đề ưu bi
khổ não. Thiệu long thánh chủng, chấn nhiếp ma
quân được xuất phát từ Như Lai tâm, ứng dụng từ
Như Lai hạnh nên được gọi là “ Trụ Pháp Vương
Gia”.
- Thế nào là “Trì Như Lai Tạng”? Như ta đã biết với việc làm tâm và
hạnh xuất phát từ bản thể Như Lai, mà thể Như
Lai là không từ đâu đến không đi về đâu, chính
là bản thể chơn như thường trú, ta và Phật giống
nhau thường tồn bất diệt. “Trì Như Lai Tạng” là
giữ gìn cái chân tánh Như Lai sẵn có nơi mình là
nói về thể, còn về ứng dụng thì “Trì Như Lai
Tạng” mang ý nghĩa giữ gìn và truyền bá ba tạng
Kinh – Luật – Luận của Như Lai.
3, Vai trò của Trụ Trì trong việc quản lý “Tự
viện”
3.1. Đạo hạnh của vị Trụ Trì:
Trụ
Trì là linh hồn ngôi chùa, là người giữ vai trò
cực kỳ quan trọng trong việc truyền trì mạng
mạch Phật Pháp, là người chịu trách nhiệm trước
giáo hội về việc hướng dẫn Tăng ni Phật tử tại
trú xứ tu học đúng pháp, đúng luật. Cho nên, hơn
ai hết vị Trụ Trì phải là người có giới hạnh
trang nghiêm, vì dù vị Trụ Trì có tài cao nhưng
đức không trọng thì sẽ khó mà nhiếp hóa lòng
người. Nên, người Trụ Trì phải toát lên được
“oai đáng kính, nghi đáng sợ”, là người “đức
trọng quỷ thần kinh”. Có như vậy mới xứng đáng
làm bậc Thầy của thiên hạ, mới có thể nhiếp hóa
đồ chúng và quần chúng tu tập.
Nghiêm trì giới luật là một trong yếu tố quan trọng hàng đầu
của vị Trụ Trì. Sự nghiêm trì giới luật làm cho
vị Trụ Trì sáng ngời uy đức, đủ làm chỗ nương
tựa cho hàng ngũ xuất gia và quần chúng Phật tử.
Chỉ cần nhìn vào oai nghi, cử chỉ của vị Trụ Trì
thôi người ta cũng đủ sanh tâm quy ngưỡng Phật
Pháp. Cho nên việc giữ giới luật của vị Trụ Trì
không chỉ vì lợi ích cá nhân thôi mà còn làm lợi
ích cho rất nhiều người.
Thứ hai, người Trụ Trì phải là người có tâm hồn bao dung,
hiền hòa, sự bình an tỏa ra một cách tự nhiên
khiến cho mọi người cảm nhận được sự bình an khi
tiếp xúc, gần gũi, đó chính là tâm “từ bi”. “Từ”
là lòng thương yêu hoàn toàn vị tha, thương yêu
bình đẳng đối với chúng sanh mà không cần sự đáp
trả nào. “Bi” là cứu khổ, với một tình thương ấm
áp như nắng mùa xuân, người Trụ Trì luôn giang
rộng đôi tay cứu giúp những người khó khăn về
măt vật chất, và khổ não về tinh thần. Cho nên
rất nhiều trường hợp có những người quy ngưỡng
đạo Phật vì xúc động trước lòng từ của vị Tăng
và cũng không ít người bỏ đạo vì bất mãn trước
lối cư xử và lối sống thiếu đạo hạnh của vị Tăng.
Vì vậy ở cương vị của Trụ Trì, người Trụ Trì
phải tu tập tâm từ bi thuần thục để có một tình
thương và uy đức lan tỏa đến mọi người.
Thứ ba, người Trụ Trì phải có phong thái điềm tĩnh vững vàng
để xử lý và giải quyết mọi công việc từ trong ra
ngoài. Có câu “tình sanh thì trí cách”, một tâm
hồn náo động lăng xăng sẽ không đủ sáng suốt để
nhìn hết mọi khía cạnh công việc và hậu quả của
vấn đề đó. Cho nên chỉ có bình tĩnh ung dung thì
người Trụ Trì mới có thể đầy đủ sáng suốt để xử
lý mọi vấn đề một cách gọn gàng chính xác nhất.
Vị Trụ Trì là người chịu trách nhiệm đối với trọng trách
“truyền trì mạng mạch Phật Pháp”, thực hiên vai
trò “Tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự”.
Thế nhưng ít người chấn hưng chốn già lam đúng
theo ý nghĩa của nó mà có một số vị Trụ Trì quên
mất đạo đức, bỏ cả ngôn hạnh, không cần nhân
nghĩa, phá hoại pháp độ, làm theo ý riêng của
mình. Khi làm Trụ Trì, họ xem già lam là của
riêng mình để làm việc riêng tư, không nghĩ đến
Giáo hội, làm cho đạo pháp ngày một đi xuống.
Người Trụ Trì phải hiểu việc thành lập chốn Già
lam là vì người học đạo, vì Chánh Pháp của đức
Phật phải được hoằng truyền. Cho nên người Trụ
Trì không xem tự viện như ngôi nhà riêng của cá
nhân mình, nên sống trong tinh thần vô ngã và vô
ngã sở “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ Tâm” (Kinh
Kim Cang). Ngôi tự viện chỉ là một phương tiện
để chúng ta thực hành sứ mạng của Như Lai, là
nơi chốn thuận lợi cho chúng Tăng tu học, cũng
là nơi chốn hoằng truyền Chánh Pháp. Tự viện là
của chung của Tăng chúng, là một đơn vị trực
thuộc của Giáo Hội, chịu sự quản lý của Giáo Hội.
Vì vậy người Trụ Trì không được xem ngôi chùa là
“của tôi, tôi có quyền làm gì thì làm”. Người
Trụ Trì không được lạm dụng Tự Viện để dung chứa
thân nhân quyến thuộc mà hãy vì Phật Pháp mà
quên đi cá nhân, hãy sử dụng ngôi Tự Viện một
cách đúng Chánh Pháp.
Tóm lại, người Trụ Trì phải trang bị cho mình đầy đủ “Huệ” và
“Đức”, có huệ mà không có đức thì mọi người
chẳng kính, có đức mà không có huệ thì khó hướng
dẫn đàn hậu lai. Vị Trụ Trì phải lấy đức làm cho
huệ càng ngày càng tỏa sáng. Có huệ và đức thì
mới có khả năng kế thừa và tiếp nối sự nghiệp
các bậc tiền nhân.
3.2. Kiến thức của vị Trụ Trì:
Không phải ai sanh ra lớn lên là biết chỉ đạo, hoặc lãnh đạo
mà bất cứ người nào cũng phải trải qua thời gian
học tập, trau dồi kiến thức. Người Trụ Trì là
người cần trang bị cho mình rất nhiều kiến thức
về mọi lãnh vực cần thiết của chức vị Trụ Trì
như kiến thức về giới luật, về Phật Pháp, phải
có kinh nghiệm tiếp Tăng độ chúng, phải biết
cách tổ chức tu học trong Thiền môn, phải biết
kiến thức xây dựng chùa, biết cách trang trí thờ
tự trong một ngôi chùa như thế nào. Dù rằng đã
có một vốn liếng kiến thức về Trụ Trì chăng nữa thì
người Trụ Trì vẫn luôn luôn bổ túc sự học hỏi
của mình không ngừng nghỉ. Vẫn biết rằng vị Trụ
Trì bận rộn trăm công nghìn việc nhưng phải
giành vài giờ trong tuần nghiên cứu thêm kinh
điển và tham dự các buổi giảng do Giáo hội tổ
chức về khóa Trụ Trì.
Trước hết, người Trụ Trì phải dành thời gian nghiên cứ giáo
lý không ngừng. Vì sao vậy ? Vì kho tàng giáo lý
của đức Phật thì mênh mông nhưng thời gian trôi
quá nhanh quá nên cơ hội nghiên cứu của chúng ta
quá ít. Hơn nữa, vai trò của vị Trụ Trì không
cho phép chúng ta dốt nát về giáo lý. Ngày nay
tín đồ Phật tử đa số là người trí thức và rất
nhiều người có trình độ Phật Pháp rất thâm sâu,
nếu như Phật Pháp yếu kém hơn cư sĩ sẽ khiến họ
sanh tâm xem thường. Chúng ta có thể kém hơn họ
về kiến thức thế gian nhưng không được kém họ về
Phật Pháp. Chính vì lý do này mà người Trụ Trì
luôn đặt nặng vấn đề trau dồi kiến thức Phật
Pháp không ngừng.
Người Trụ Trì phải am tường những pháp căn bản của giới luật
để biện biệt trong hành trì và hướng dẫn đồ
chúng. Ví dụ như muốn dạy cho đệ tử biết cách
làm “thị giả” thì người Trụ Trì phải có kiến
thức cũng như kinh nghiệm làm “thị giả” như thế
nào. Người Trụ Trì phải biết: cương giới, giới
trường, ngũ thiên, thất trụ, các pháp yết ma, …
am tường cách thức truyền giới và thọ giới, phải
biết làm “Thầy” phải hội đủ các điều kiện gì,
phải biết cách thức thế phát xuất gia cho đệ tử
v.v.
Người Trụ Trì phải am tường nghi lễ Phật giáo, vì
phần đông quần chúng biết đến đạo Phật qua hình
ảnh ngôi chùa thân thương, qua hình tượng Phật
từ ái, qua vị Trụ Trì khả kính và nhất là qua
nghi lễ Phật giáo. Nghi lễ Phật giáo là một loại
hình tín ngưỡng tôn giáo không thể thiếu đối với
đại đa số quần chúng. Từ Nghi lễ Phật giáo mà
Tam Bảo được tôn vinh, nên vị Trụ Trì dễ gần gũi
và dẫn dắt tín đồ hơn.
Người Trụ Trì phải biết cách tổ chức các lễ hội Phật giáo
sao cho lễ hội đó phải mang nét đặc thù của văn
hóa Phật giáo, vừa tính trang nghiêm trọng thể
vừa tránh được lãng phí, vừa truyền tải được
những ý nghĩa sâu sắc của triết lý đạo Phật.
Người Trụ Trì phải biết cách tổ chức, biết cách điều hành
đạo tràng tu Bát Quan Trai, tu Phật thất… để
người Phật tử cảm thấy ngày một thăng tiến hơn
trên con đường tâm linh. Họ cảm thấy hạnh phúc,
an lạc trong những ngày tu, họ cảm nhận được sự ấm
áp của tình thầy trò, tình huynh đệ, họ càng
đoàn kết với nhau hơn, cùng nhau hết lòng hộ trì
Tam Bảo.
Vị Trụ Trì phải thông suốt mọi đường lối của Giáo hội. Ngôi
chùa là một cơ sở của giáo hội, vị Trụ Trì thay
mặt giáo hội điều hành mọi công việc Phật sự tại
bổn tự và hướng dẫn quần chúng tu học, tất nhiên
vị Trụ Trì phải hiểu rõ tất cả văn kiện, nghị
quyết mà giáo hội đưa ra. Là một thành viên của
giáo hội, người Trụ Trì phải thể hiện tinh thần
chung là thống nhất ý chí và hành động, lấy hiến
chương và nội quy của giáo hội làm chuẩn để sinh
hoạt, tránh chống đối, gây bất lợi cho Đạo Pháp.
3. 3. Trách nhiệm của vị Trụ Trì:
Người Trụ Trì gánh vác trên đôi vai của mình nhiều trách
nhiệm nặng nề. Trước hết, người Trụ Trì phải
biết cách tổ chức và điều hành một cách có hệ thống
sự tu học của Tăng chúng nội tự. Lo việc trong
chùa cho ổn định nề nếp rồi, người Trụ Trì còn
lo việc bên ngoài như làm các công tác từ thiện
xã hội, hướng dẫn quần chúng và Phật tử tu tập…
Sau đây là một số nhiệm vụ điển hình mà người
Trụ Trì phải thực hiện.
3. 3.1. Sắp xếp ban điều hành và các ban trong Tự Viện:
Đối với những ngôi chùa ít Tăng chúng thì vấn đề tổ chức nội
tự không quan trọng lắm, nhưng đối với những
ngôi Tự Viện mà Tăng chúng đông thì vấn đề tổ
chức điều hành có hệ thống là một vấn đề không
thể thiếu được. Đó là trách nhiệm cốt lõi của vị
Trụ Trì. Nếu một người Trụ Trì kém về mặt tổ
chức sẽ đưa đến sự bất mãn, xáo trộn, không có
nề nếp, dẫn đến chất lượng tu học của Tăng chúng
cũng không được cao. Ngược lại nếu vị Trụ Trì
biết cách tổ chức và điều hành nội tự một cách
có hệ thống và mang tính khoa học thì mọi việc
được rút ngắn thời gian, mang tính gọn nhẹ, trôi
chảy, nhưng kết quả lại cao. Bên cạnh đó người
Trụ Trì biết cách điều hành sẽ khiến cho đời
sống sinh hoạt Tăng chúng có nề nếp, hòa hợp
trong tinh thần cùng học, cùng tu, cùng giữ giới
luật, đây là một môi trường lý tưởng cho sự tu
học của Tăng chúng. Như vậy, vị Trụ Trì phải
biết tổ chức đại chúng nội tự tu học như thế nào?
Người Trụ Trì không thể ôm trọn hết mọi công việc nội tự,
nhất là nơi Tăng chúng đông đảo. Người Trụ Trì
phải cử ra Ban chức sự (Ban điều hành) để chia
bớt trách nhiệm với mình. Tổng quát Ban chức sự
có thể như sau:
- Một phó Trụ Trì có khả năng quán xuyến mọi việc để thay
thế Trụ Trì khi Trụ Trì vắng mặt.
- Một tri
chúng
để kiểm soát chúng, kiểm soát thời khóa tu học
và oai nghi của chúng, nhắc nhở chúng áp dụng
đúng Thanh quy.
- Một thủ
quỹ
giữ tiền của Tự viện, chỉ xuất theo lệnh Trụ Trì
và ban chức sự.
- Một tri sự để sắp xếp và kiểm soát việc lao tác của Tăng
chúng, nhắc nhở chúng hoàn thành nhiệm vụ của
mình.
Ban chức sự phải làm việc ăn khớp với nhau dưới sự chỉ đạo, giám
sát của Trụ Trì, không để xảy ra tình trạng
chồng chéo trách nhiệm của nhau mà nhiệm vụ
người nào người đó phải hoàn thành. Ban chức sự
do Trụ Trì chỉ định hay do đại chúng đề cử và
cần có nhiệm kỳ thay đổi để mọi người được trải
qua thời gian trong ban chức sự hầu rèn luyện
khả năng dẫn chúng về sau. Ngoài ban chức sự căn
bản trên, cần có thêm:
- Một Hương Đăng (hoặc một nhóm người làm Hương đăng) để coi
sóc về Chánh điện như coi sóc về hoa quả cúng
Phật, lau chánh điện, thức chúng…
- Một Trưởng liêu (mỗi liêu có một trưởng liêu) để gần gũi
và sách tấn chúng.
- Một Tri khố để sắp xếp việc ăn uống cho chúng.
- Một Tri khách để tiếp khách và sắp xếp việc ăn ở trong
thời gian khách lưu trú, đồng thời giải đáp
những câu hỏi thông thường của khách. Tuy nhiên
tri khách phải là người tế nhị, am hiểu tình
hình nội viện và xã hội, là người có khả năng
giải đáp mọi thắc mắc về Phật Pháp cho khách.
- Một khán
bịnh để chăm sóc sức khỏe cho chúng. Người
khán bịnh phải được bồi dưỡng trong y học. Các
tự viện bên Trung Hoa ngày xưa, người quản lý
nhà trù là một thầy thuốc
- Một Thủ kho để giữ gìn vật tư, kỹ thuật máy móc, đồ dùng
của nội viện.
- Một Tri
viên
để chăm sóc vườn tược cây cảnh của chùa.
Những công việc trên có thể luân phiên mỗi người (có thể là 2, 3
người như Hương đăng) một tháng hoặc ba tháng,
hay một năm, tùy theo cách bố trí khác nhau của
mỗi chùa. Ngoài ra để sự sinh hoạt của chúng có
sự nhịp nhàng đều độ thì mỗi ngày phải chia
phiên hành đường (dọn ăn cho đại chúng), Trị
nhật (nấu ăn cho đại chúng), làm vệ sinh công
cộng… Người Trụ Trì phải tránh tình trạng thiên
vị một ai đó mà giao cho họ những công việc nhẹ
không đồng với chúng, sẽ dẫn đến sự bất mãn của
đại chúng. Vị Trụ Trì điều hành mọi công việc
trên tinh thần bình đẳng với một tấm lòng bao
dung rộng mở, hết lòng thương yêu chúng. Nói
chung vị Trụ Trì có đầu óc tổ chức làm sao để
mọi người cùng tu học và chấp tác trong tinh
thần lục hòa, bình đẳng và tự giác. Điều hành
làm sao để mọi công việc được trôi chảy, rút
ngắn thời gian nhưng gặt hái thành quả lại rất
cao. Làm được như vậy thì không việc gì không
thành tựu.
3. 3.2. Lập Thanh Quy:
Ngoài những giới luật căn bản từ Đức Phật truyền lại như Sa
Di, Sa Di ni, Thức Xoa, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni… mỗi
Tự viện cần lập thêm Thanh Quy cho thích hợp với
môi trường tu học nội tự. Bởi vì có Tăng chúng
là đệ tử thế độ của người Trụ Trì, nhưng có
người từ nơi khác đến y chỉ vị Trụ Trì, có người
niên lạp đáng là đệ tử Trụ Trì, nhưng cũng có
người lớn hơn hoặc tương đương Trụ Trì. Trong
vấn đề tình và lý phức tạp như vậy, ngôi Tự viện
cần có bản Thanh Quy làm quy ước để giữ gìn ổn
định của đời sống nội tự. Người đến Tự Viện phải
là người tự nguyện chấp hành Thanh Quy của Tự
Viện, nếu không họ có thể tự do rời khỏi Tự
Viện, nếu ở thì phải chấp hành Thanh quy của Tự
Viện. Trong Thanh quy, quy định thời khóa tu
tập, chấp tác, quy định tinh thần, thái độ của
Tăng chúng, quy định những luật lệ giữ gìn sự
thanh tịnh của Tăng chúng. Ví dụ, quy định thời
gian tiếp khách là bao nhiêu, không để họ tiếp
khách cả ngày, mất thời gian tu học và chấp tác,
đồng thời cũng giúp cho họ tránh bớt duyên bên
ngoài. Sự đi lại của Tăng chúng cũng được kiểm
soát rõ ràng, không thể tự do muốn đi đâu thì
đi, vì vừa tốn tiền xe, vừa ô nhiễm thế tục, vừa
mất thời giờ tu học.
Rõ ràng Thanh Quy là sự trói buộc sự phóng túng của một
người còn nhiều lăng xăng phiền động, để giúp họ
ở yên tu học. Người Trụ Trì tuy hết lòng thương
Tăng chúng, luôn luôn lo lắng cho sự tu học của
Tăng chúng nhưng phải nghiêm khắc áp dụng Thanh
Quy để giữ gìn sự ổn định và thanh tịnh của chốn
Thiền môn.
3.3.3. Thường xuyên đi tuần liêu để theo dõi sự tu học của chúng:
Tâm chúng sanh rất dễ nhiễm các pháp bất thiện, các pháp bất
thiện thì như cỏ dại mọc trên đồng nội, dễ sanh
sôi nảy nở, còn các thiện pháp thì phải có sự
chăm sóc không ngừng mới đâm hoa kết trái, ví
như cây lúa cần có bàn tay chăm bón của con
người mới đơm bông kết hạt. Cũng vậy, tuy là
người xuất gia nhưng mới tập tu nên các pháp bất
thiện còn mọc đầy trong tâm thức, nếu không có
người nhắc nhở, sách tấn, hướng dẫn thì cũng dễ
nhiễm pháp thế gian và chảnh mảng tu hành. Cho
nên vị Trụ Trì sau khi đã đặt ra chương trình tu
học rồi nhưng cần phải thường xuyên theo dõi sự
tu học của chúng, có như vậy mới có thể giải
quyết kịp thời sự thiếu thốn của chúng, và phát
hiện những chảnh mảng trong sự tu học của chúng.
Đồng thời để dễ giám sát việc tu học của chúng hơn, người Trụ
Trì phải thường xuyên đi xem xét nơi ngủ nghỉ
của đồ chúng có đàng hoàng không (thuật ngữ gọi
là “tuần liêu”). Theo luật Tăng Kỳ, ngày xưa đức
Phật cũng thường đi tuần liêu vì năm việc sau
đây:
- Sợ đệ tử làm những việc hữu vi
- Sợ đệ tử làm những việc quá thế tục
- Sợ đệ tử ham mê ngủ nghỉ
- Đến thăm viếng các đồ chúng bị bệnh
- Khiến cho các đồ chúng mới vào đạo xem thấy oai nghi của Phật mà
học theo.
Để
thành công trong việc nhiếp chúng, người Trụ Trì
phải gần gũi với chúng, phải làm sao cho chúng
kính mình như người cha, thương mình như mẹ và
có thể giải bày tâm sự như bạn bè. Có như vậy họ
mới thố lộ hết tâm tư, khúc mắc trong vấn đề tu
học để nhờ vị Trụ Trì chỉ dẫn cho họ. Người Trụ
Trì phải nắm rõ tâm tính của từng người để đưa
ra những phương cách dạy dỗ phù hợp.
3.3.4. Thế độ xuất gia và giáo huấn đệ tử:
Trách nhiệm lớn lao của vị Trụ Trì là “truyền trì mạng mạch
Phật Pháp”, nhưng nếu không có người tiếp nối
thì lấy ai để giữ gìn Phật Pháp? Thế nên việc
xây dựng tầng lớp Tăng sĩ tài đức để sau này có
thể tiếp nối những bậc Tôn túc hoằng dương Chánh
Pháp là trách nhiệm quan trọng của người Trụ
Trì.
Theo đường lối hiện nay, người muốn xuất gia phải có lý lịch
minh bạch. Việc làm này để đảm bảo rằng không có
những thành phần xấu trà trộn trong hàng ngũ
Tăng chúng. Vào những thời kỳ Phật giáo hưng
thịnh trong lịch sử, số người xin xuất gia rất
đông, nhưng lúc nào cũng vậy, lượng nhiều thì
phẩm ít. “Cái tệ kiêu Tăng, xa hoa,
hưởng thụ, phóng túng … là cái tệ chung của mọi
tôn giáo khi tôn giáo đó được đãi ngộ quá mức”.
Tôn giáo nào xuất hiện những hiện tượng này thì
tôn giáo đó đang xuống dốc. Ngày nay số lượng
Tăng ni còn đông hơn trước, tất nhiên không
tránh khỏi những điều phức tạp đã và đang xảy
ra. Cho nên người Trụ Trì khi nhận người xuất
gia phải chọn lựa kỹ càng, phải biết gốc tích và
nguyên nhân xuất gia của họ, phải được cha mẹ
gởi gắm và bảo lãnh trước khi họ vào chùa (ngoại
trừ những người có hoàn cảnh đặc biệt nhưng tha
thiết xuất gia với ý chí dũng mãnh). Khi đã tiếp
nhận họ, vị Trụ Trì phải dạy dỗ nghiêm minh về
mọi mặt, đừng ham đệ tử đông mà sau này chính họ
phá hoại Tam Bảo mà mình là người chịu một phần
trách nhiệm. Nhận người vào hàng ngũ xuất gia,
người Trụ Trì phải chọn lựa cẩn thận, sáu căn:
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý phải đầy đủ (như
lùn, lé không được xuất gia, nếu xuất gia không
được thọ đại giới). Khi mới nhận vào cho tập tu,
khoan cạo tóc vội, để thử thách có phải là hảo
tâm xuất gia không. Trong thời gian tập tu này
vị Trụ Trì bắt buộc họ phải học thuộc và hành
trì hai quyển luật Tỳ Ni Nhật Dụng,
Oai nghi của Sa Di (Sa Di Ni) và Công Phu
Khuya. Học xong hai quyển luật và thời Công
Phu Khuya, tiếp tục thực tập tụng niệm và học
thuộc thời công phu chiều (A Di Đà, Hồng
Danh, Mông Sơn). Sau khi nhận thấy người đó
có đạo hạnh và chí nguyện xuất gia chơn chánh,
vị trụ trụ thế phát xuất gia, thâu nhận làm đệ
tử. Sau khi thế phát cho họ rồi, người Trụ Trì
với trọng trách của một người Thầy, cũng là
người cha, người mẹ, phải thương yêu và dạy dỗ,
tạo mọi điều kiện cho đệ tử tu học, trở thành
một người tài đức mà sau này có thể gánh vác
Phật Pháp.
3.3.5. Tác pháp yết ma:
“Yết
ma” là thỉnh ý chúng để lấy quyết định, đây là
tính cách dân chủ trong đạo Phật. Có những việc
quan trọng mà vị Trụ Trì không thể đơn phương
giải quyết, cần phải thỉnh ý chúng. Ví dụ: việc
thay đổi chức sự, nhận thêm chúng, tẩn xuất
chúng, truyền giới, thế phác, an cư… Pháp “Yết
ma” lâu ngày trở thành hình thức hợp thức hóa
một quyết định đã được thông qua trước. Ví dụ
sau khi đã thông qua quyết định truyền giới,
chúng họp lại đầy đủ, y áo chỉnh tề, tác pháp
yết ma để hợp thức hóa:
- “Tác bạch như trên có thành không”
- “Mô Phật, thành”.
Việc như vậy chỉ là hình thức truyền thống, nhưng cũng cần phải duy
trì. Tuy nhiên tinh thần thực sự của pháp “Yết
ma” là thỉnh ý chúng một cách dân chủ. Chúng có
trách nhiệm đối với những sự kiện quan trọng của
Tự Viện và họ cần được biểu quyết ý kiến một
cách bình đẳng.
3.3.6. Kinh tế Tự Viện:
Kinh tế của Tự Viện phải được tổ chức thế nào để ít đầu tư
thời gian nhưng đạt hiệu quả cao. Muốn như vậy,
người Trụ Trì cần phải áp dụng những thành tựu
khoa học kỹ thuật. Có những Tự Viện có nhiều
đất, ruộng, rẫy, nếu không khéo chúng ta sẽ bắt
Tăng chúng căng hàng phơi nắng cuốc đất ngày này
qua ngày khác. Điều này lỗi thời với thời đại
khoa học ngày nay và nói lên sự sắp xếp vụng về
của người lãnh đạo.
Có những Tự Viện tổ chức làm nhang, làm đồ chay đem ra chợ
bán, có những Tự Viện tổ chức làm tương chao…
nhưng như vậy chỉ là chế biến sản phẩm vì chưa
phải sản xuất sản phẩm. Có những Tự Viện tổ chức
làm nấm mèo, nấm rơm, nấm bào ngư… công việc này
nhẹ nhàng ít tốn thời gian chăm sóc và phù hợp
với người tu hơn.
Chung quy lại, là người làm Trụ Trì không nên quá chú trọng
vào công việc kinh doanh buôn bán nhiều như
người đời mà làm mất thời gian tu học của Tăng
chúng, và làm mất đi phần nào giá trị của người
xuất gia. Chúng Tăng không cần phải làm giàu như
người đời, họ chỉ cần làm vừa đủ để sống một
cuộc sống tu hành đạm bạc. Thế nên người Trụ Trì
phải khéo léo tổ chức làm kinh tế sao cho ít tốn
thời gian mà đạt hiệu quả. Những máy móc cần
trang bị cho nhu cầu công việc phải sắm đầy đủ
vì không sử dụng máy móc trong việc làm kinh tế
là lạc hậu.
3.3.7. Hướng dẫn quần chúng và Phật tử tu học:
3.3.7.1. Hướng dẫn những người chưa hiểu đạo vào đạo:
Hướng dẫn những người chưa hiểu đạo vào đạo là vấn đề quan
trọng trong vấn đề hoằng dương Chánh Pháp của vị
Trụ Trì. Về khía cạnh này, chúng ta phải nhìn
nhận rằng đây là điểm yếu kém của các ngôi chùa
về cách truyền đạo không bằng các tôn giáo khác.
Điển hình là Thiên chúa giáo, họ có những cách
giữ tín đồ cũng như lôi kéo tín đồ. Họ có thể
dùng vật chất, hay làm công tác từ thiện, hoặc
dạy học, đôi lúc còn hù dọa, cưỡng chế… để lôi
kéo tín đồ. Đạo Phật chúng ta thì có xu hướng
không tranh, đề cao tinh thần tự giác, đây là lý
do mà nhiều tín đồ đạo Phật dễ dàng bỏ đạo mình
sang đạo khác, và vì đạo Phật chúng ta không đặt
nặng vấn đề lôi kéo tín đồ như các đạo khác nên
tín đồ Phật giáo không đông là lẽ tất nhiên. Nói
thế, không phải chúng ta cũng phải làm giống như
họ mà Đạo Phật chúng ta phải có những cách riêng
phù hợp với tinh thần đạo Phật, chúng ta phải
coi trọng vấn đề đem ánh sáng đạo Phật vào đời.
Để thực hiện vấn đề này, người Trụ Trì phải làm
gì?
Đối với những người đi chùa nhưng chưa hiểu đạo Phật, họ đến
chùa cầu xin một điều gì đó, hay đi chùa vì thói
quen, hay đi chùa vì muốn tìm một chút bình an,
thanh thoát khi tâm hồn đang chất chứa bao lo
toan, bao phiền muộn trong cuộc sống. Đối với
những người đi chùa nhưng chưa hiểu đạo như thế
thì người Trụ Trì phải có phương pháp hướng dẫn
họ vào đạo. Chúng ta thấy vào những ngày 30, 1,
14,15 là những ngày mà quần chúng đi lễ Phật
đông nhất. Sau mỗi thời lạy sám hối, đích thân
vị Trụ Trì, hay vị Trụ Trì có thể cử một vị Tăng
trong chùa thuyết một thời pháp ngắn cho những
người đi chùa nghe. Không những thuyết pháp
thôi, mà sau đó còn phát cho họ băng đĩa, kinh
sách để họ tự nghiên cứu thêm. Làm được như vậy,
dần dần chúng ta giúp họ hiểu được cái hay cái
đẹp của đạo Phật, từ đó họ sẽ đến với chùa bằng
cái nhìn chân chánh và tiến bộ hơn nhiều. Một
khi họ đã hiểu và có cái nhìn chân chánh về đạo
Phật rồi thì lúc này người Trụ Trì có thể dễ
dàng khuyên họ quy y và thọ trì năm giới. Bên
cạnh đó, chúng ta không chỉ thuyết giảng Phật
Pháp vào những ngày đông người đi lễ Phật thôi,
mà bất cứ lúc nào tiếp xúc với những người chưa
hiểu đạo, người Trụ Trì, hoặc tri khách hay bất
cứ vị Tăng nào trong nội tự khi nói chuyện với
họ cũng khéo léo thuyết giảng cho họ hiểu Phật
Pháp rồi khuyên họ quy y và thọ trì năm giới.
Chúng ta thiết nghĩ, nếu bất cứ vị Trụ Trì nào
biết đặt nặng vấn đề này và đưa ra những phương
cách thích hợp nhất để hướng dẫn quần chúng vào
đạo, quy y Tam bảo thì có lẽ đạo Phật chúng ta
ngày một phát triển hơn nhiều.
3.3.7.2. Truyền Tam quy – Ngũ giới:
Truyền Tam quy – Ngũ giới là một nhiệm vụ không thể thiếu
của người làm Trụ Trì, vì Tam quy – Ngũ giới là
những quy định và tiêu chuẩn đạo đức tuyệt vời
giúp người Phật tử thực hiện lối sống lành mạnh,
trong sạch, hạnh phúc theo lời Phật dạy. Việc
truyền Tam quy – Ngũ giới sẽ tạo cho người Trụ
Trì có nhiều bổn đạo hơn, ngôi chùa sẽ hưng
thạnh hơn, vì sau khi quy y họ trở thành những
người Phật tử chơn chánh, họ sẽ đi chùa thường
xuyên hơn, gắn bó với chùa nhiều hơn.
3.3.7.3. Thành lập đạo tràng, hướng dẫn Phật tử tu học:
Thiết lập đạo tràng tu tập cho quần chúng Phật tử là một
trong những mục tiêu của Giáo Hội nói chung và
của mỗi vị Trụ Trì nói riêng. Kinh Pháp Cú đức
Phật dạy: “Hạnh phúc thay tứ chúng đồng tu” đã
nói lên hoài bão của Phật rằng: đệ tử xuất gia
và tại gia phải nương tựa vào nhau đồng tu học
thì Phật Pháp sẽ vững mạnh và phát triển. Hơn 45
năm hóa độ, Đức Phật đã xây dựng được bốn chúng
đồng tu, xứng danh với “giác hạnh viên mãn”.
Đạo tràng thời đức Phật tập hợp Tăng ni và Phật tử vào những
ngày gọi là ngày trai giới. Ngày trai giới còn
có tên là ngày Bố Tát, nghĩa là ngày làm lớn
mạnh sự thanh tịnh của tâm. Chư Tăng có truyền
thống tập trung Bố Tát vào hai ngày: ngày trăng
tròn và ngày không trăng (15 và 30). Trong dịp
này chư Tăng sẽ thuyết giảng và hướng dẫn các
Phật tử tu học trong một ngày đêm qua pháp môn
Bát Quan Trai Giới. Từ đó pháp môn thọ Bát Quan
Trai Giới trở thành con đường tu tập đạo giải
thoát của người Phật tử tại gia. Cho nên ngày
nay người Trụ Trì tiếp nối đức Phật cũng như chư
vị Tổ sư thành lập đạo tràng tu Bát Quan Trai,
hầu giúp Phật tử có một môi trường cũng như cơ
hội tu tập để thăng tiến trên con đường tâm
linh.
Để đáp ứng nhu cầu tu học hiện nay của Phật tử, ngoài đạo
tràng Bát Quan Trai Giới ra, vị Trụ Trì phải
thành lập thêm các đạo tràng tu Phật thất, đạo
tràng tu thiền định .v.v.
- Thiết lập chương trình: Bát Quan Trai hay tu Niệm Phật,
ngồi thiền … thì chương trình tu học luôn xây
dựng trên cơ sở Tam vô lậu học, tức là Giới –
Định – Tuệ. Nếu chương trình quá xa lộ trình
Giới – Định – Tuệ thì sẽ đánh mất chất liệu đặc
thù của Phật giáo.
- Phân loại đối tượng: phải phân loại đối tượng để thiết lập nội dung tu phù hợp với
từng đối tượng.
- Điều hành quản lý đạo tràng:
Vị Trụ Trì là người lãnh đạo và hướng dẫn trực tiếp về mặt
chuyên môn, sau đó mới điều hành chư Tăng có
chuyên môn và kinh nghiệm, sau nữa là cộng tác
với những Phật tử thuần thành của chùa. Có hai
mặt phải làm là điều hành các mối quan hệ trong
đạo tràng; hai là chăm sóc các hành giả trong
sinh hoạt cũng như trong tu tập. Làm thế nào để
mọi người tham dự khóa tu cảm thấy nhẹ nhàng ấm
áp tình huynh đệ, làm cho thông điệp tu tập từ
người lãnh đạo, thông qua người quản lý đi vào
lòng người tham dự khóa tu. Họ sẽ cảm thấy thời
gian tu của họ trong đạo tràng thật sự bình an,
tiến triển hơn về tâm linh. Vị Trụ Trì điều hành
đạo tràng được như vậy là thành công.
3.3.7.4. Thiết lập mối quan hệ với xóm làng, với xã hội:
Thông thường những gia đình sống gần chùa lại không biết đạo,
nên dễ xảy ra sự va chạm qua lại. Cho nên vị Trụ
Trì và Tăng chúng phải khéo léo thiết lập mối
quan hệ tốt đẹp giữa chùa với cộng đồng dân cư
xung quanh. Khi gia đình nào có người qua đời,
thì vị Trụ Trì cùng Tăng chúng đến phúng điếu,
chia buồn, tụng thời kinh, hướng dẫn gia đình
cách lo đám như thế nào… Khi gia đình nào nghèo
khó, chúng ta cũng đến giúp đỡ vật chất cho họ…
Nói chung lại là làm những công việc lợi ích cho
làng xóm, để cho mọi người cảm nhận được hình
ảnh tràn đầy tình thương yêu của vị Trụ Trì và
Tăng chúng. Một khi mọi người đã có tình cảm gắn
bó với chùa rồi thì chúng ta rất dễ truyền đạo.
Vị Trụ Trì phải làm sao để cộng đồng dân chúng
sống quanh chùa đều đi chùa, đều quy ngưỡng Tam
Bảo, trở thành những Phật tử thuần thành hết
lòng phụng sự Tam Bảo. Làm được như thế mới có
thể đem ánh đạo đến với xóm làng, tạo được những
tình cảm thân thương gắn bó giữa chùa với người
dân.
Vị Trụ Trì không chỉ quan tâm đến việc tạo mối quan hệ gắn
bó giữa chùa với làng xóm thôi mà vị Trụ Trì còn
quan tâm hơn nữa đối với việc thiết lập mối liên
hệ giữa ngôi chùa với xã hội. Để thực hiện điều
này, vị Trụ Trì phải tham gia các công tác từ
thiện làm lợi ích cho cộng đồng như xây dựng cầu
đường, mở lớp học tình thương, cứu trợ đồng bào
bị thiên tai… Song song với những việc làm công
ích cho xã hội, vị Trụ Trì còn quan tâm đến việc
đem đạo vào đời để chuyển hóa độ đời. Làm sao để
mọi người trong xã hội hiểu được giáo lý nhân
quả của đạo Phật, thực hành năm giới của đạo
Phật. Bên cạnh đó, vị Trụ Trì làm sao để các lễ
hội hội của Phật giáo đi vào tâm tư tình cảm của
người dân, tạo thành một nếp văn hóa của dân
tộc, chứ không phải chỉ riêng của tín đồ Phật
giáo không thôi. Đó chính là tinh thần nhập thế
tích cực mà một người làm Trụ Trì cần thực hiện
hầu hoàn thành sứ mạng “hành pháp vi gia vụ,
lợi sanh vi bổn hoài”.
Nhìn chung, Tự Viện là cơ sở văn hóa tinh thần, là bóng
mát tâm linh cho quần chúng, là chốn Thiền môn
nghiêm tịnh cho chúng Tăng an trú tu tập, tiến
bước lên trên con đường giải thoát giác ngộ.
Trong đó, vị Trụ Trì là linh hồn của Tự Viện,
giữ vai trò lãnh đạo, quản lý, tiếp độ Tăng
chúng, là nhà giáo dục tâm linh dẫn dắt tín đồ
hướng đến đời sống thuần lương đạo đức, cao hơn
nữa là dẫn dắt tín đồ tu tập giải thoát theo
giáo lý đức Phật. Vị Trụ Trì là một nhân tố quan
trọng trong sự thịnh suy của ngôi Tự Viện, cũng
chính là nhân tố quyết định sự thịnh suy của
Chánh Pháp. Nếu vị Trụ Trì có tài đức vẹn toàn,
biết cách quản lý điều hành Tự Viện, có nhiệt
tâm “truyền trì mạng mạch Như Lai”, đưa đạo vào
đời để chuyển hóa độ đời thì lẽ hẳn nhiên ngôi
Tự Viện sẽ hưng thịnh, đúng với câu nói “mái
chùa che chở hồn dân tộc”, gần gũi thân
thương với làng xóm quê hương, in đậm mãi trong
lòng người dân Việt.
Tăng Ni ngày nay có vị hiện đang Trụ Trì, hoặc có vị tương
lai sẽ Trụ Trì nên vấn đề nghiên cứu kiến thức
Trụ Trì cũng như kiến thức về cách điều hành
quản lý một ngôi Tự Viện là một việc làm vô cùng
cần thiết, không nói quá là vô cùng cấp bách.
Bởi vì sao, làm Trụ Trì là nắm trong tay vận
mạng của Phật Pháp, ngôi chùa có mang tính nhập
thế cao hay không, có tiếp nối chư vị Tổ sư
“truyền trì mạng mạch Như Lai” hay không, tất cả
đều tùy thuộc vào người Trụ Trì có nhiệt tâm, có
đạo hạnh và có kiến thức cũng như tài năng điều
hành Tự Viện hay không. Hiểu được tầm quan trọng
của ngôi chùa trong sứ mạng hoằng dương Chánh
Pháp và vai trò quan trọng của vị Trụ Trì trong
việc quản lý Tự Viện rồi, mỗi người tu sĩ ngay
từ bây giờ phải trang bị cho mình một kiến thức
đầy đủ về Trụ Trì, đồng thời quan sát cách làm
việc của những người đang Trụ Trì, thấy được
những cái hay, cái dở của họ để rút ra bài học
kinh nghiệm cho mình sau này. Được như vậy, nếu
sau này hội đủ nhân duyên được bổ nhiệm làm Trụ
Trì thì có lẽ chúng ta sẽ làm Trụ Trì rất tốt,
nhất là tránh tình trạng tư hữu, tham chấp chùa
là “của tôi”, rồi làm những chuyện phi Chánh
Pháp. Và chúng ta hãy làm Trụ Trì bằng tất cả
tấm lòng “hoằng pháp vi gia vụ, lợi sanh vi
bổn hoài”.
Tuệ Đạt
theo
www.hoalinhthoai.com
|