THÀNH KÍNH
TƯỞNG NIỆM
Đại Lão
Hòa Thượng Thích Huyền Quang
Đệ Tứ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất
Ai Văn của Môn
Đồ Pháp Quyến
Trong Lễ Tưởng
Niệm và Thọ Tang Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích
Huyền Quang - Đệ Tứ Tăng Thống Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất - tại thành phố Santa
Ana vào lúc 3 giờ chiều Chủ Nhật, ngày 6 tháng 7
năm 2008.
Nam Mô Tiếp Dẫn
Đạo Sư A Di Đà Phật
Kính bạch Giác
Linh Thầy,
Từ nơi xa xăm xứ
người, chúng con vọng về quê hương đồi núi
Nguyên Thiều Tu Viện, thành kính đảnh lễ Giác
Linh Thầy, trong giờ phút tử biệt ngàn năm.
Chúng con phủ phục vào đất, để nghe đất mẹ đang
thổn thức thương đau. Cả đất trời dường như tịch
lặng, khi ngưng đập rồi một con tim vĩ đại, băng
rồi một vì sao rạng ngời, khép lại rồi, một đời
người bất diệt thiên thu.
Nghĩ đến Thầy,
chúng con liên tưởng đến nhiều bài học lớn mà
Thầy đã dạy chúng con qua cuộc sống của một Đạo
sư.
Một là: Xin
đừng Thù hận khi phải sống giữa những người thù
hận quanh ta. Bao nhiêu năm tù trong một chế
độ. Hàng chục năm dài lưu đày trong ngôi chùa
nhỏ xa xăm. Thầy không khởi tâm thù hận, sân si
dù cửa trước, ngõ sau đều có người chực chờ hăm
hở, mắt nhìn Thầy, một tội đồ dân tộc còn đây.
Ai giam Thầy giữa ruộng đồng Hội Phước. Ai nhốt
Thầy những ngày tháng Phan Đăng Lưu. Ai gông
Thầy trong cuộc tìm độc lập cho non sông. Ai ném
Thầy vào nhà giam vì đòi hỏi bình đẳng giữa các
Tôn Giáo. Kệ, muôn vạn lần Thầy vẫn kệ, dù người
đó là ai, súng dí vào Thầy, hay trăm lời nguyền
rủa, Thầy vẫn trải lòng “Từ” đến kẻ cuồng si.
Thầy đã cảm hóa nhiều người nhìn Thầy, một kẻ
thù của chế độ, và nơi Thầy, thầy chỉ thấy có vô
minh mà không có người cuồng nộ.
Hai là: Ai
trói buộc ai. Bằng trí tuệ viễn chiếu, Thầy
chẳng thấy mình bị trói buộc bởi ai. Nếu được
đi lại thì Thầy sống đời du hóa, độ sanh. Nếu bị
giam thì Thầy biến nhà giam thành nơi Thiền Thất,
ngày đêm đọc Đại Tạng và quán chiếu nỗi khổ của
dân sinh. Hơn trăm ngàn trang kinh trong Đại
Tạng, Thầy đã đọc qua, trong những năm dài bị
nhốt. Sách Thầy được viết, Sớ Thầy được soạn
giữa lúc đày ải này đây. Thầy đã thong dong
trong bốn bức tường cô lập. Trí Ngài rực sáng
giữa ruộng đồng hiu quạnh, tịch liêu. Chẳng có
nhà tù cho một tù nhân bị nhốt. Chẳng trói được
người dù người bị trói ngày đêm. Thầy đã sống và
thong dong trong sự sống của một tù nhân nhiều
thập kỷ.
Ba là: Xin
đừng có gì cho riêng Ta. Nhiều lần Thầy
khuyên dạy chúng con. Thầy không muốn có gì
riêng cho Thầy, dù đó là chùa hay tử đệ. Thầy
cho rằng, hãy dốc lòng lo cho Giáo hội và Phật
pháp mà thôi. Từ tuổi đôi mươi cho đến ngày tàn
hơi thở, tiếng thác đổ trong tâm thức của Thầy
là sự tử sinh của Giáo hội. Là sự an bình của
Tăng ni. Là sự vực dậy của hai ngàn năm Phật
Giáo Việt. “Đây là Kinh xin hãy học; Đây là
Đạo xin hãy sống; Đây là dân tộc xin hãy cưu
mang”, Thầy đã nhiều lần lập đi lập lại
thông điệp này trong nỗi đắng niềm cay. Cho đến
giờ phút này, nhiều lần huynh đệ chúng con thưa
Thầy xây tháp để lúc thầy viên tịch có chỗ di
quan. Nhưng Thầy đều từ chối. Thầy dạy chúng
con, xin để đời Thầy về với hai bàn tay trắng
cùng vài bộ đồ củ kỹ đơn sơ. Tháp rồi cũng mòn
hư theo năm tháng. Thầy dạy, dùng tiền ấy lo
Tăng chúng tu học thì hơn. Chỉ có một khoảnh đất
nhỏ hoang sơ ven triền núi Tu Viện sẽ làm nơi an
nghỉ của Thầy thiên thu. Thầy yếu, nhưng sâm
Thầy chẳng uống, Thầy sợ tốn kém của đàn na.
Trời nóng, Thầy không cho mở máy lạnh vì Thầy
nói còn lắm kẻ lầm than. Đời Thầy là vậy. Sự
sống của Thầy là vậy, cho dù đương vị của Thầy
như hôm nay.
Bốn là: Vì ai
và cho ai?
Kính lạy giác linh Thầy. Vì Đại Bi Tâm mà Thầy
gánh gồng Giáo hội. Thầy đã làm bia cho kẻ bắn,
người đâm. Thầy là bức tường để che chở cho Đạo
Phật Việt Nam. Thầy không thấy có hố ngăn giữa
những màu cà sa được khoát. Vì ai? Thầy đi đảnh
lễ những người đồng môn từ Bắc vào Nam. Vì ai?
Thầy đứng giữa trời quê hương, dang tay mời gọi:
“Hãy xít lại gần nhau, hỡi những người huynh
đệ chúng ta”. “Hãy vì Phật Giáo Việt Nam
và cho Phật Giáo Việt Nam, đừng để một thế lực
nào chi phối chúng ta”. Ai có nghe chăng
tiếng rống một của con Sư tử già cuối đời vọng
lên giữa ba đào nghiệt ngã.
Rồi hôm nay Thầy
ra đi, Thầy còn để lại gì cho chúng con, và đây
một bài thơ, Thầy viết cách ba mươi năm trước:
Tuổi sáu mươi dư
cũng đã già
Thân danh sự
nghiệp chuyện ngày qua
Mai về cõi Phật
lòng thanh thót
Để lại trần gian
chút bóng ta.
Cái bóng mà Thầy
để lại cho chúng con là Tuệ Giác nhìn xa, là
vững tay chèo giữa sóng vỗ cuồng si, là mở rộng
lòng cho muôn sông cùng đổ về biển, là đơn sơ
như mảnh vụn của chiếc cà sa.
Thầy ơi, Thầy còn
đó hay Thầy không còn đó, nhưng lòng con, con
nghe rõ tiếng “Gọi Về”. Về đâu rồi đi đâu?
Thành kính đảnh
lễ Giác Linh Thầy.
NHẤT
TÂM ĐẢNH LỄ: GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG
NHẤT ĐỆ TỨ TĂNG THỐNG KIÊM GIÁM VIỆN TU VIỆN
NGUYÊN THIỀU THƯỢNG HUYỀN HẠ QUANG ĐẠI LÃO HÒA
THƯỢNG TÂN VIÊN TỊCH CHI GIÁC LINH.
Ontario ngày 6
tháng 7 năm 2008
Tỳ Kheo Thích
Minh Dung
Trang Tưởng Niệm Đức Đệ Tứ Tăng Thống
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
|