CƠM SÔI NHỎ LỬA
Chân Pháp Khâm

Trong cuộc sống lứa đôi, các cặp vợ chồng đều
muốn có một gia đình hạnh phúc và muốn được sống
bên nhau trọn đời. Tương kính như tân – vợ chồng
sống với nhau, đối đãi nhau, kính trọng nhau như
người khách quý lúc mới gặp – là một cách để giữ
vững niềm hạnh phúc đó. Nói thì dễ, nhưng làm
được nó đòi hỏi rất nhiều nỗ lực. Có khi chỉ vì
một chuyện nhỏ nhặt không đâu, một câu nói bông
đùa lỡ lời mà hạnh phúc bị tan vỡ…
Tôi
đã có dịp lắng nghe tâm tư của các đôi bạn trẻ
qua những buổi làm lễ hộ niệm thành hôn (Lễ Hằng
Thuận), hay qua các buổi tham vấn cho các bạn
gặp khó khăn trong liên hệ tình cảm và nhận thấy
sự thực tập chánh niệm trong đời sống hằng ngày
giúp rất nhiều trong việc duy trì hạnh phúc tình
cảm lứa đôi. Không thể tránh những đụng chạm
trong đời sống, nhưng ta có thể giải quyết chúng
một cách hài hoà, khi trong ta có sự hiểu biết
và thương yêu.
Bài
hát Cõi mê (A crazy world, ABBA, 1976) nói về
cảm xúc, suy nghĩ và hành động của một chàng
trai khi thấy người yêu của mình tiếp xúc với
một người đàn ông khác. Sáng hôm đó không ngủ
được, chàng trai đi bộ qua nhà người yêu để nói
chuyện. Đến nơi, chàng thấy một người đàn ông từ
nhà của người yêu đi ra bãi đậu xe và sau đó lái
xe đi. Người yêu của chàng cũng đi ra tiễn.
Chàng nghĩ là mình bị phản bội và sợ là người
yêu sẽ bỏ rơi mình. Thấy người yêu tỉnh bơ như
không có việc gì xảy ra, chàng như muốn điên lên
và la lối rằng là chàng đã hết lòng yêu nàng,
sao nàng lại quen người khác, nàng chẳng đã từng
nói chàng là người đàn ông duy nhất của nàng hay
sao. Cô gái mỉm cười trả lời rằng có hai người
đàn ông trong cuộc sống của cô. Anh trai của cô
– người vừa mới lái xe đi – là một trong những
người đó. Anh nàng đã đi xa một thời gian dài và
nay trở về đây sinh sống. Chàng sẽ có nhiều cơ
hội tiếp xúc với người anh trai dễ thương của
nàng. Nhận thấy là mình bị hớ và như là đang ở
trong cơn mê, chàng trai chỉ còn biết nói thầm
là người yêu đừng bao giờ bỏ rơi mình.
Thương yêu và được thương yêu là một trong những
nhu cầu căn bản và thâm sâu nhất của con người.
Không thương và không được thương thì ta khó mà
lớn lên được. Tình thương yêu ở đây không chỉ là
tình yêu đôi lứa, mà còn là tình thương đối với
người thân, bạn bè và tha nhân. Và cả cho muôn
loài khác nữa. Thương như thế nào để ta và người
ta thương được tự do, để người ta thương không
trở thành vật sở hữu của mình, để ta không sợ bị
mất người ta thương. Thương như thế nào để khi
người ta thương được những người khác thương, ta
cảm thấy tình thương của ta thay vì bị giảm đi
hay bị đe doạ thì lại được tăng lên nhiều lần.
Trong
thực tế, đa số chúng ta muốn người ta thương chỉ
thuộc về riêng ta, nên khi có người khác thương
người ta thương, ta cảm thấy khó chịu và thường
có những phản ứng để chứng tỏ quyền sở hữu của
mình. Có khi mẹ chồng cũng ghen với nàng dâu vì
không còn được độc quyền chăm sóc con trai mình
nữa. Những tình trạng tâm lý này xảy ra khá
thường, nên mới có câu “có thương thì mới
ghen, không thương thì ai ghen làm gì”. Nói
vậy, nhưng không ai vui vẻ gì khi ở trong tình
trạng đó, dù là ghen với lý do chính đáng (khi
người ta yêu có người yêu khác) hay ghen bóng
ghen gió. Người bị ghen thì cảm thấy buồn và xấu
hổ, người ghen thì cảm thấy giận dữ và bất an.
Yên sao được khi lúc nào cũng sợ mất người mình
thương. Cả hai đều cảm thấy mất tự do.
Sự
chiếm hữu thường đưa đến những khó khăn trong
liên hệ tình cảm và làm khổ người ta thương.
Ghen chỉ là một ví dụ. Vì nghĩ người ta thương
là của ta, ta muốn người ta thương phải làm theo
ý ta: phải mang áo màu này, phải ăn thức ăn này,
phải làm việc này..., nếu không thì ta buồn, ta
giận. Vì sao mà ta có những cảm xúc, suy nghĩ và
hành động như trên? Những gì đã xảy ra trong
thâm tâm ta khi ta ghen? Có phương pháp nào để
chuyển hoá trạng thái ghen tuông đó, để bảo vệ
và vun trồng tình yêu ngày càng bền vững? Ta hãy
tìm hiểu những sự kiện trên qua cái nhìn của Duy
biểu học, một môn học về tâm lý của Phật giáo.
Vận hành của tâm thức
Đời
sống con người được biểu hiện qua thân và tâm.
Thức, một từ được dùng rất nhiều trong tâm lý
học Phật giáo, có nghĩa là biết. Để ghi nhận và
biết những hiện tượng của cuộc sống, ta có sáu
giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý.
Mắt tiếp xúc với hình sắc cho ta cái biết ở mắt
– thấy, nhãn thức. Tai tiếp xúc với âm thanh cho
ta cái biết ở tai – nghe, nhĩ thức. Mũi tiếp xúc
với mùi hương cho ta cái biết ở mũi – ngửi, tị
thức. Lưỡi tiếp xúc với vị cho ta cái biết ở
lưỡi – nếm, thiệt thức. Thân thể tiếp xúc với
xúc chạm cho ta cái biết ở thân thể – xúc, thân
thức. Ý tiếp xúc với các pháp (các hiện tượng
sinh lý, vật lý và tâm lý) cho ta cái biết ở ý –
nhận biết, ý thức. Để thử xem bệnh nhân có bị
hôn mê hay không, bác sĩ thường thử khả năng
biết ở các giác quan.

Các
từ tâm, ý và thức thường được dùng để diễn tả
các hiện tượng tâm lý mà mắt ta không thấy được.
Cảm giác (thọ, feeling) được phát sinh khi các
giác quan tiếp xúc với đối tượng của chúng. Có
cảm giác dễ chịu (lạc thọ); có cảm giác khó chịu
(khổ thọ); và có cảm giác không dễ chịu cũng
không khó chịu (xả thọ).
Khi
ta tiếp xúc với sự vật, một tri giác phát sinh,
gọi là tưởng (perception). Ta thường có những
tri giác sai lầm (vọng tưởng) về một vật hay sự
việc nào đó khi ta chưa có những hiểu biết rõ
ràng về nó. Ví dụ như một người đi trong đêm tối,
chân đạp phải một sợi dây thừng mà cứ tưởng là
con rắn, rồi la lên. Những người đang yêu thường
hay có những vọng tưởng về người mình yêu, sau
khi lấy nhau thì mới thấy những điều mình nghĩ
là không đúng, rồi sinh ra buồn chán và thất
vọng. Vọng tưởng thường dẫn đến khổ đau.
Tâm
ta có những hiện tượng tâm lý gọi là tâm hành
(mental formation). Có 51 tâm hành, trong đó có
tâm hành tốt (như tin tưởng, trung thành, bao
dung, không tham, không giận, sáng suốt…), tâm
hành xấu (như đa nghi, phản bội, ganh ghét, tham,
giận, ngu si…) và những tâm hành khác. Thọ và
tưởng cũng là hai trong số 51 tâm hành này.
Không
phải tự nhiên mà các tâm hành này xuất hiện.
Chúng đã có mặt trong tâm ta từ lâu dưới dạng
những hạt giống. Những hạt giống này đã được
trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và
được cất giữ ở một chỗ gọi là tàng thức (cái
biết cất chứa). Khi có điều kiện thích hợp thì
những hạt giống tâm hành này biểu hiện trên ý
thức (cái biết biểu hiện). Ý thức dẫn đến những
hành động và lời nói trong sinh hoạt hằng ngày
của ta. Nếu ta biết tạo điều kiện cho những hạt
giống tốt phát triển và biểu hiện, những ý nghĩ,
hành động và lời nói của ta sẽ đem lại niềm an
vui cho cuộc sống. Ví dụ như một bà mẹ lấy chăn
đắp cho con khi thấy con ngủ mà không đắp gì.
Hạt giống thương yêu của người con được tưới tẩm
nên cảm thấy hạnh phúc và thương mẹ quá chừng.
Hành động đơn giản vậy đó mà làm cho người con
nhớ hoài.
Ta có
thể xem tàng thức là nhà kho ở tầng dưới, ý thức
là phòng khách ở tầng trên của một căn nhà. Khi
một hạt giống xấu biểu hiện ở ý thức, ta không
xua đuổi nó, chỉ cần nhận diện sự có mặt của nó,
và đừng tạo điều kiện cho nó phát triển thêm.
Thay vào đó, ta tạo điều kiện cho một hạt giống
tốt phát triển và tập trung vào tâm hành tốt đó
thôi, tâm hành xấu sẽ yếu dần và từ từ đi xuống
tàng thức dưới dạng của hạt giống. Ví dụ như ta
muốn khoe chiếc áo đầm mới với một người bạn.
Nhưng người bạn lại nói rằng màu đó không đẹp.
Thế là cơn giận trong ta nổi lên. Biết mình lỡ
lời, người bạn lại nói cái nơ thắt ngang lưng
làm cho người mang nó thon và đẹp ra. Được khen,
cơn giận trong ta giảm đi. Ông bà ta cũng đã
nói:
“Chồng
giận thì vợ bớt lời
Cơm
sôi nhỏ lửa một đời không khê”.
Ở
giữa tàng thức và ý thức là mạt na thức, cái
biết chấp ngã. Cái biết chấp ngã này cho rằng
tất cả các hiện tượng đều nhằm để phục vụ ta,
chỉ cho riêng ta. Nó như là bức màn che, làm cho
cái biết của mắt, của tai, của lưỡi, của thân và
của ý không được khách quan. Khi tiếp xúc với
đối tượng nào, ta cũng nghĩ là của ta và cho ta.
Ví dụ như một chàng trai thấy một cô gái đẹp mỉm
cười, lại nghĩ là cô ta cười với mình. Hay trong
một buổi sinh hoạt chẳng hạn, thấy người khác
được khen và được nhắc tên, ta cũng muốn được
nhắc tên mặc dù ta không dính líu gì đến chuyện
đó hết.
Trở
lại câu chuyện của chàng trai và cô bạn gái.
Chàng có cảm giác khó chịu khi thấy người đàn
ông rời khỏi nhà của người yêu – khổ thọ sinh ra
khi mắt thấy cảnh mình không muốn thấy. Vì không
biết người đàn ông đó là anh của người yêu,
chàng nghĩ người đàn ông là người yêu của nàng
và người yêu đã lừa dối chàng – một tri giác sai
lầm (vọng tưởng). Tri giác sai lầm của chàng
trai đã phát sinh những tâm hành sợ hãi (sợ mất
người yêu), giận dữ và nghi ngờ. Không kiểm soát
được cơn giận, chàng lớn tiếng cãi với người
yêu. Cô gái rất khéo, nói ngay người đàn ông đó
là anh trai mình. Cơn sợ hãi, giận dữ và nghi
ngờ trong chàng biến mất nhờ nghe được câu chàng
muốn nghe – người đó không phải là người yêu của
nàng. Tuy nhiên, cô gái cũng muốn tưới tẩm hạt
giống cởi mở, bao dung của người yêu, muốn cho
chàng bớt ghen và tập chia sẻ người mình thương
với người khác nên mới nói là anh trai của nàng
cũng quan trọng giống như chàng vậy, chàng nên
làm quen với anh trai của nàng, anh nàng dễ
thương lắm.
Câu
chuyện kết thúc có hậu nhờ chàng trai biết nói
ra những điều làm cho chàng đau khổ và cô gái
biết lắng nghe và biết nói ra những điều làm cho
chàng bớt khổ. Nếu vì tự ái mà chàng trai bỏ về
rồi cứ im lặng ôm lấy niềm đau, rồi ghen bóng
ghen gió, thì có thể cuộc tình sẽ tan vỡ. Tự ái
là một điều không nên có mặt trong tình yêu. Chỉ
cần chàng trai đi trễ năm phút là không thấy anh
trai của người yêu đi ra khỏi nhà của nàng, và
sẽ không có sự hiểu lầm. Ta không thể đóng cửa
các giác quan, không thể không nhìn, không nghe,
không thấy. Chàng trai nên cám ơn những gì đã
xảy ra. Nhờ vậy chàng mới hiểu được mình hơn.
Phiền muộn nằm sẵn trong ta chớ không nằm ở
ngoài. Đổ lỗi cho những điều kiện bên ngoài mà
không nhìn kỹ những gì xảy ra trong tâm ta không
giúp ta chuyển hoá được khổ đau.

Không để cảm thọ chi phối
Khó
khăn xảy ra khi ta không biết cách ứng phó với
cảm thọ. Đang giận mà không biết cách điều hoà
cơn giận, ta mới la hét, đập phá để giải toả
năng lượng giận đó. Tâm lý học Tây phương trước
đây thường đề nghị một phương pháp để giải toả
năng lượng giận là đánh vào một cái gối bông,
tưởng tượng gối bông đó là đối tượng giận của
mình, để năng lượng giận có cơ hội thoát ra
ngoài. Hành động này tự nó có tính cách bạo động.
Đánh xong rồi, mệt đừ, năng lượng giận có được
giải toả, nhưng hạt giống bạo động lại được tưới
tẩm. Phương pháp này nay ít được dùng.
Năng
lượng được biểu hiện trong ta dưới ba dạng: tinh,
khí và thần. Tinh là năng lượng tình dục, khí
là năng lượng hơi thở, thần là năng lượng của
các trạng thái tâm lý. Năng lượng hơi thở có
tính chất trung hoà có tác dụng nuôi dưỡng thân
tâm. Khi hai loại năng lượng tình dục và tâm lý
có tính cách phá hoại, ta lập tức trở về với hơi
thở, chuyển hoá chúng thành năng lượng hơi thở.
Tập trung vào hơi thở vào và hơi thở ra, đừng
suy nghĩ gì cả. Có thể sẽ mất 5, 10 phút, hoặc
lâu hơn, nhưng không sao. An trú trong năng
lượng của hơi thở chánh niệm, giúp ta không hành
động theo cảm xúc – khi không làm chủ được lý
trí – và tránh được tình huống “Chưa đánh
được người mặt đỏ như vang / Đánh được người mặt
vàng như nghệ”.
Khi
vui quá – ví dụ như khi đội banh mình ưa thích
đoạt giải vô địch Euro 2008, thì một năng lượng
náo nhiệt xuất hiện, nó bắt ta phải làm gì đó.
Ta hét, đập bàn, đập ghế để ăn mừng. Khi buồn
quá – ví dụ như khi cuộc tình đổ vỡ – một năng
lượng tuyệt vọng xuất hiện. Năng lượng này cũng
rất mạnh, có khi khiến ta làm những hành động
dại dột, nguy hiểm đến tính mạng. Khi cô đơn và
muốn có người hiểu để chia sẻ nỗi niềm, một năng
lượng bức xúc xuất hiện, có thể khiến ta kiếm
người để tâm sự, để ôm ấp. Đây là trường hợp
năng lượng tâm lý chuyển sang năng lượng tình
dục. Hiện tượng “tình một đêm” đa số là
do lý do này. Ta cũng có thể chuyển hoá năng
lượng tình dục qua năng lượng khí và thần. Người
tu trong nhà Thiền thực tập chuyển hoá năng
lượng tình dục thành năng lượng tu học, để có
thể thành công trên con đường lý tưởng, như bài
kệ dưới đây:
“Xin
đem năng lượng này,
Chuyển thành tinh tấn lực,
Đường
lý tưởng đi lên,
Sự
nghiệp mau hoàn tất”.
Khi ta không còn bị cảm thọ chi phối, ta có thể bình tĩnh nhìn lại
những gì đã xảy ra để ứng phó với những phiền
muộn một cách thích đáng.
Năm lời phát nguyện
Hạnh
phúc cuộc sống lứa đôi tuỳ thuộc vào mối quan hệ
của đôi lứa với nhau, với mọi người và mọi sự
việc chung quanh. Có được mối quan hệ tốt với
cha mẹ, người thân và bạn bè, sẽ giúp cho cuộc
hôn nhân thêm bền vững. Buổi lễ thành hôn được
tổ chức dưới sự chứng kiến của nhiều người, họ
là những nhân chứng, và họ mong muốn cho cuộc
hôn nhân được tốt đẹp. Khi đôi lứa gặp khó khăn,
họ có thể giúp hàn gắn đổ vỡ.

Khi
làm Lễ Hằng Thuận theo nghi thức Phật giáo, cô
dâu và chú rể được hướng dẫn đọc năm lời phát
nguyện, trong đó có hai lời nguyện để tưới tẩm
sự hiểu biết và thương yêu giữa hai người, để
việc đối xử theo tinh thần “tương kính như tân”
có thể thực hiện được:
•
Chúng con nguyện nương vào nhau, xây dựng cho
nhau bằng tình thương, sự tin cậy, sự hiểu biết
và lòng kiên nhẫn.
•
Chúng con nguyện thường tự nhắc nhở rằng sự
trách móc, sự hờn giận và lý luận chỉ làm hao
tổn hoà khí và không giải quyết được gì. Chúng
con biết chỉ có sự hiểu biết và lòng tin cậy mới
bồi đắp được hạnh phúc và sự an lạc.
Đọc
xong năm lời phát nguyện thì cả hai được công
nhận là vợ chồng. Hai vợ chồng được khuyên là
nên cùng nhau đọc lại những lời phát nguyện này
mỗi tháng một lần, vào dịp trăng tròn. Trước khi
trao nhẫn, cả hai cùng lạy nhau hai lạy để tỏ
lòng tương kính với nhau.
Hạnh
phúc là một điều có thật và ở trong tầm tay của
chúng ta. Có nắm được nó, có giữ được nó hay
không tuỳ theo cách nhìn, cách ứng xử của chúng
ta. Sống với hiện thực, đừng sống trong ảo tưởng.
Những hiểu lầm và khó khăn trong cuộc sống lứa
đôi là điều không thể nào tránh khỏi. Với hiểu
biết và thương yêu, chắc chắn những khó khăn đó
sẽ được chuyển hoá thành chất liệu để xây dựng
hạnh phúc
Chân Pháp Khâm

|