NGƯỠNG VỌNG
Ngưỡng
Vọng Cuộc Đời và Hành Trạng Của Đức Đệ Tứ Tăng
Thống thượng
Huyền
hạ
Quang!
THÍCH NHẬT TÂN
Cuộc
đời Ngài là ngọn núi cả, ngước nhìn, đã mỏi cổ
Cuộc
đời Ngài là khu rừng thiêng, đứng ngó, đã rùng
mình
Cuộc
đời Ngài là biển đại thệ, như triều dâng sóng vỗ
Cuộc
đời Ngài là sông đại nguyền, như nước biếc lung
linh
Dùng
chữ nghĩa để tôn vinh
Xứng
danh, nhưng quá thường tình
Dùng
tâm lượng phàm phu ca ngợi
Không
đủ ngôn từ diễn tả
Dùng
giải này giải kia đánh giá
Như
những món quà dâng tặng, thế thôi
Dùng
cương vị này cương vị kia, tôn ngôi
Tư thế
đó, đâu cần ai đặt để
Mà chỉ
có nhất nhất, tâm tâm, niệm niệm, chân thành
đảnh lễ
Mà chỉ
có rưng rưng, cảm cảm, bi bi, sụp lạy, cúi đầu
Trong
vũ trụ bao la kia, hằng hà sa số tinh cầu
Đứng
lại trong giờ phút này đây, lặng yên bất động
Trong
vạn hữu phù sinh kia, hằng hà chúng sinh trầm
lắng
Im bặt
trong giờ phút này đây, thầm nguyện kinh cầu
Ngài
về trong cõi nhiệm mầu
Ngài
đi từ cõi nhiệm mầu mà đi
Ngài
về trong cõi vô nghì
Ngài
đi Ánh Đạo Từ Bi óng vàng
Ngài
về thăm cõi Lạc Bang
Ngài
quay trở lại trần gian cứu đời
Như
Ngài đã nói :
“Cuộc
đời tôi
Ở
không nhà
Sống
không đất
Tù
không tội
Chết
không mồ”(1)
Do đó:
Ngài
sinh ra, bởi vận mệnh, cơ đồ
Ngài
sống đó, bởi dân tộc, tổ quốc
Ngài
ngồi đó, bởi thế thời thành thất
Ngài
ra đi, bởi Đạo Pháp Quê Hương
Dù ai
nói núi là sông
Dù ai
nói đá là vàng
Dù ai
nói trắng là đen
Vẫn
không có gì thay đổi được
Không
lợi dụng, không giả danh, không quyền chước
Không
vọng cầu, không vong bản, không phi nhân
Không
cướp công, không tranh đoạt, không thủ phần
Là
Long Tượng, lương đống, trượng phu, đâu cần thứ
đó
Cuộc
đời Ngài, cả một trăm năm, xem như tròm trèm thế
kỷ
Thì
Đạo Pháp và quê hương, xem như trải qua ba thời
Dị
khẩu đồng âm, dõng dạt tuyên bố một lời
Cả ba
thời, đều mệnh danh, thủ thuật
Cả ba
thời, đều đội dù, che khuất
Cả ba
thời, không thực thì cũng ngoại lai
Cả ba
thời, thế nước lòng dân, ách tai
Ai
không bon chen danh lợi leo đài
Ai
không trùm mền, nhắm mắt, buông tay
Ai nói
lên tiếng nói: vận nước điêu linh, thế nước bị
xéo dày
Thì
ngưỡng cửa ngục tù, nhốt khóa hãm kìm, chứ làm
sao kết tội
Đã
biết rồi, nếu muốn nói, thì phải nói
Đất
nước Việt Nam, lịch sử đã năm ngàn năm
“Phật
Giáo Việt Nam, lịch sử đã hai ngàn năm
Cơ sở
Phật Giáo, là núi rừng, hải đảo, thôn quê, thị
thành
Địa vị
Phật Giáo, là tám mươi phần trăm dân số Việt Nam
Đạo lý
Phật Giáo, là đường dài mở nước, dựng nước, cứu
nước”
(2)
Như
vầng nguyệt thanh trong, không vẩn màu uế trược
Như
vầng nhật ánh dương, không vẩn áng mây mù
Dù đời
Ngài sống với lao tù, nhưng lao lý để lại thiên
thu
Ai dám
hỏi lao lý, lao tù, lao tình, lao tội
Cuộc
đời Ngài, một trăm năm, nay qua khỏi
Ngài
gian truân, vì cả đất nước gian truân
Ngài
khổ thân, vì cả dân tộc cực hình
Nay
Ngài chết, nhưng oai linh Ngài bất diệt
Ai đã
biết và ai chưa hay biết
Mảnh
trời Nam nước Việt giống Lạc Hồng
Một
ngàn năm trầm thống nhớ không
Một
trăm năm tai ách chất chồng
Hăm
mốt năm tơi bời khói lửa
Mấy
chục năm trường ray rứt hồn thiêng
Khổ
đau phủ cả ba miền
Tang
thương phủ cả mọi miền quê hương
Đan
tâm cay xé tư lương
Đan
tay vá víu nhiễu nhương cơ đồ
Biển
Đông trào sóng nhấp nhô
Trường
Sơn nhả khói vật vờ hồn đau
Nước
kia đã lắm nương dâu
Non
kia đã lắm sắc màu nát tan
Tâm tư
trăn trở tâm can
Tự
tình trăn trở, tương tàn thế ni
Hùng
tâm, hùng lực, ai vì
Đại
bi, đại nguyện, ai vì cho ai
Hai
ngàn năm qua
Bao
nhiêu bậc khai tổ, danh sư, quốc sư
Vẫn
phương đài, truyền đăng tục diệm
Năm
ngàn năm qua
Bao
nhiêu bậc minh quân, danh tướng, anh hùng
Vẫn
phương đài, kim cổ soi chung
Hàng
ngàn năm sau
Muốn
thắm tô Dân tộc, Đạo pháp, Quê hương
Vẫn
noi gương đời đời liệt Tông, liệt Tổ
Hôm
nay:
Ngài
đã Tây quy
Lá
rụng về cội
Nước
quay về nguồn
Pháp
cổ trầm hùng ngân ngân mãi
Huyền
Quang tâm lực sắt sắt son
Đạo
pháp muôn đời bi bi nguyện
Giang
sơn muôn thuở châu châu viên
Từ
đông tây nam bắc
Từ
quốc nội hải ngoại
Khắp
bốn biển năm châu
Khác
màu da chủng tộc
Của
thế kỷ hai mươi
Đầu
thế kỷ hăm mốt hôm nay
Tăng
tín đồ cúi lạy dâng Ngài
Cả dân
tộc kính vọng tên Ngài
Cả
nhân loại hướng vọng tên Ngài
Một
con người Việt Nam
Của
dân tộc Việt Nam
Của
Phật Giáo Việt Nam
Đại
lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang
Đức Đệ
Tứ Tăng Thống Huyền Quang bất tử !!!
Thích Nhật Tân
ngưỡng bái
1 & 2: Trích những câu nói khẳng
khái lịch sử của chính Đức Tăng Thống.
Đạo Vàng Tỏa Rạng
Thích Nhật Tân
Vũ trụ lăn quay
Ngân hà xao xuyến
Mây mù vần vũ
Khuất bóng trăng sao
Ba ngàn thế giới rung động
Ba đường sáu nẻo xôn xao
Trái đất rợn hồn nín lặng
Lòng người im bặt, nao nao
Ngưỡng bạch Đệ tứ Tăng Thống
Huyền Quang chín phẩm trên cao
Ngài đi, hằng viễn nhiệm mầu
Chúng con ở lại, rầu rầu ruột đau
Ngài đi, đứt mấy nhịp cầu
Chúng con ở lại, chìm sâu vuông tròn
Ngài đi, lửa đốt sắt son
Chúng con ở lại, lối mòn sương pha
Hỡi ôi, là cõi ta bà
Tâm nguyền nguyền đắng, hạnh ngà ngà cay
Hỡi ôi, cát đá bụi bay
Tình vương vương nặng, nghĩa ngây ngây nồng
Hỡi ôi, núi Thái biển Đông
Dư đồ một mảnh giống dòng Việt Nam
Chung nhau lịch sử năm ngàn
Chung nhau ấm lạnh cơ hàn thịnh suy
Chung nhau khổ nhục vô nghì
Chung nhau nước mắt, bờ mi đã mòn
Trước năm 1954, rách nát!
Sau năm 1954, tương tàn!
Trước năm 1975, bi đát!
Sau năm 1975, lầm than!
Nhục nhằn, từ Nam tới Bắc
Khổ đau, từ Bắc tới Nam
Quốc nội, hải ngoại, tim thắt
Trong ngoài, hai mối, lòng se
Ngài đi, Mùa Hạ đang về
Tiếng chuông tiếng mõ nhịp khua Đàn tràng
Ngài đi, Mùa Hạ băng ngang
Tăng Ni tứ chúng hàng hàng xót xa
Ngài đi, Mùa Hạ chưa qua
Hương bay khói quyện gần xa Nguyên Thiều
Trông về Phương trượng tịch liêu
Ngày đêm sáu khắc, chín chiều ruột đau
Cách ngăn, còn mấy nhịp cầu
Dập vùi, còn mấy sắc màu tang thương
Tâm nguyền Đạo pháp - Quê hương
Hạnh nguyền chan chứa tư lường hồn ai
Rêu mờ, son sắt không phai
Dấu mờ, không nhạt phương đài Huyền Quang
Chắp tay, nâng đóa Ưu Đàm
Giải Hòa tỏa rạng Đạo Vàng Như An.
Năm năm trước - Năm năm sau
Thích Nhật Tân
Năm năm trước
Thiết lễ, suy tôn
Ngài lên ngôi vị Tăng Thống
Năm năm sau
Cúi đầu, đảnh lễ
Ngài tịch lắng Tây quy
89 năm trần thế,
tâm lực vô nghì
69 năm Pháp lạp,
Tăng phong, Đạo cốt
Tu viện Nguyên
Thiều
Một bậc long
tượng ẩn khuất
Phật Giáo Việt
Nam
Một bậc lương
đống xả thân
Phong trần mấy
gánh phong trần
Đắng cay mấy gánh,
cơ cần ruột gan
Quê hương - Đạo
pháp cưu mang
Một đời lao khổ,
lầm than vô ngần
Xích xiềng, không
dám đeo gông
Một đời, ba thuở
nằm trong lao tù
Sắt son, rực sáng
tâm như
Bách niên ư hữ,
không dư, thiếu - thừa
Thế thời đưa đẩy,
đủ chưa
Chín mươi độc
ảnh, chưa vừa hay sao
Thế thời nghiêng
ngửa bờ lau
Đạo - Đời, vùi
dập nao nao đoạn đành
Một đời, ai nhục,
ai vinh
Một đời, bóng núi
nghiêng mình tiêu sơ
Năm năm trước,
Ngài không ước mơ
Năm năm sau, Ngài
chẳng trông chờ
Ngài đã từng nói:
Đạo pháp - Dân
tộc ư
Tấm thân tôi này!
Quê hương - Lịch
sử ư
Đôi tay tôi này!
Cứ tội, cứ tù, cứ
lao, cứ lý
Cứ nhục, cứ hình,
nếu chết thì thôi
Chứ không hề lay
chuyển
Không thể đổi
thay
và trước sau như
một
Hôm nay, Ngài xả
báo thân, quy nhất
Nhưng thật ra,
Ngài đã quy nhất từ lâu
Đạo pháp gắn liền
với Dân tộc - tuy một mà hai
Lịch sử gắn liền
với đất nước - tuy hai mà một
2000 năm Phật
Giáo
5000 năm Dân Tộc
Đá dẫu mòn, nhưng
ngọc không phai
Lửa càng nung,
thì vàng càng sáng
Nguyên Thiều, 1
giờ chiều ngày 5 tháng 7, Hạ nắng
Huyền Quang, xả
nhục thân, Mậu Tý lục ngoạt, bảo sở hoàn nguyên
Ngài về một cõi
tịch biên
Quê hương - Đạo
pháp, con thuyền lao linh
Ngài về, thăm cõi
vô sinh
Ta bà nhập thế,
đăng trình độ sanh.
Tưởng niệm Đức Đệ Tứ Tăng Thống -
Hoà Thượng Thích Huyền Quang
|