LƯỢC
SỬ TỔ ĐÌNH PHỔ BẢO - BÌNH ĐỊNH
bản
lưu truyền của
Chư Tăng Môn Phái Chúc Thánh Minh Hải
(1997)

I. KHAI SÁNG VÀ THIÊN
DI CẢI HIỆU
A. KHAI SÁNG
Tổ Đình Phổ Bảo hiện nay nguyên là Am Phổ Giác do Lão
ông Thiền sư Ngộ Giác, tự Thiện Minh, thế danh
Lê Tấn Đạt, đệ tử thiền sư Đạt Giám (sáng lập
chùa Long Phước) khai sáng vào năm Quý Tỵ
(1773), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 34 để tu niệm,
tại thôn Phổ Trạch, tổng Nhơn Ân, huyện Tuy
Phước, phủ Hoài Nhơn, trạm Bình Điền, thuộc Dinh
Quảng Nam. Am Phổ Giác nguyên thuỷ xây mặt hướng
Nam - Đông Nam nằm trên đồi Hòn Ấn thôn Phổ
Trạch. Hiện nay (1997) là nghĩa trang liệt sĩ
huyện Tuy Phước.
B. THIÊN DI, TÁI THIẾT VÀ CẢI HIỆU
Đến năm Bính Thân (1836) niên hiệu Minh Mạng thứ 16,
Thiền sư Phổ Huệ, thế danh Lê Tấn Viên, con trai
thứ tư của cụ Đạt, thiên di, tái thiết và cải
hiệu Am Phổ Giác thành Phổ Bảo Tự đến ngày nay.
Tuy thiên di cải hiệu, nhưng vẫn tọa lạc tại
thôn Phổ Trạch, nay thuộc xã Phước Thuận, huyện
Tuy Phước, tỉnh Bình Định, Trung phần Việt Nam.
Nguyên ngôi chùa ngài Phổ Huệ thiên di – tái thiết tọa
Càn, Tốn hướng, Tỵ Hợi phân kim - theo di chúc
của ngài Phổ Huệ là vào mùng 4 tháng 8 năm Tân
Dậu (1861), niên hiệu Tự Đức thứ 14 (những tài
liệu trên hiện còn lưu tại Tổ Đình Phổ Bảo).
Đến năm Canh Thìn (1940), niên hiệu Bảo Đại thứ 15,
ngài Tâm Ấn, tu phương tái thiết, xoay mặt về
hướng Tây - Tây Nam như hiện nay .
II.PHỔ HỆ THỪA TRUYỀN
(Nguyên Am Phổ Giác do Thiền sư Ngộ Giác tạo lập
để thiền quán khi tuổi về già tại Hòn Ấn).
1.
Ngài Phổ Huệ, húy Toàn Ý, tự Vi Trí - đệ tử của Tổ Pháp Liêm, tự Luật
Oai, hiệu Minh Giác – “Bình Mang Tảo Thị” trú
trì Tổ Đình Phước Lâm, ấp Cẩm Hà, thành phố Hội
An, tỉnh Quảng Nam. Đồng sư với Ngài là tổ Pháp
Thuyên, tự Luật Truyền, hiệu Diệu Nghiêm, khai
sơn Bạch Thạch Sơn Từ Quang Lan Nhã, nay thường
gọi là Chùa Từ Quang Đá Trắng tại Phú Yên. Ngài
Toàn Ý là sơ tổ của Tổ Đình Phổ Bảo.
Đệ tử ngài gồm có:
* Huý Chương Lý khai sơn chùa Diêu Phong, Diêu Trì, Phước
Long.
* Huý Chương Nghĩa thiên di, cải hiệu Giang Long Thiền Thất
thành Tổ Đình Sơn Long toạ lạc tại thành phố Quy
Nhơn.
* Huý Chương Tường, Chương Lượng, sáng lập chùa Vĩnh Khánh
xã Nhơn Hưng, An Nhơn.
* Huý Chương Thiện, sáng lập chùa Phổ Quang, thôn Phổ Trạch,
Phước Thuận, Tuy Phước.
* Huý Chương Trí, tái thiết và cải hiệu chùa Hưng Long thành
chùa Hưng Khánh, xã Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước
hiện nay.
* Huý Chương Hải, cải Am Thiên Trúc, tái thiết thành chùa
Thiên Trúc, thôn Bình Lâm.
* Huý Chương Nhẫn, tự Tuyên Tâm khai sơn chùa Diệu Giác (?)
* Huý Chương Hiệp, thừa kế Tổ Đình Phổ Bảo, khai sơn chùa
Huỳnh Long, thôn Huỳnh Mai, xã Phước Nghĩa, Tuy
Phước sau ngài về trú trì
chùa Thiên Hòa, thôn
Tri Thiện, xã Phước Quang.
Tổ Toàn Ý là vị Thiền sư đạo cao đức trọng, nên những vị đệ
tử của Ngài đều là bậc danh đức đã khai sáng
hoặc tái thiết cải hiệu các ngôi Bửu điện ghi
trên. Kể từ đó tỏa ra hàng trăm tự viện, hàng
ngàn Tăng, ni thuộc phái Lâm Tế Chúc Thánh Minh
Hải từ Bình Định đến Sài Gòn như hiện nay.
Tổ Toàn Ý, sinh năm Kỷ Mùi (1799), thị tịch năm Nhâm
Thân (1872), Ngài thọ 74 tuổi. Tháp Ngài hiện ở
hướng Đông – Bắc Tổ Đình Phổ Bảo.
2.
Ngài Thánh Trì, huý Chương Hiệp (đệ tử trẻ tuổi nhất
của Tổ Toàn Ý) khi Ngài trú trì Tổ Đình Phổ Bảo.
Năm Giáp Ngọ (1894) niên hiệu Thành Thái thứ 6,
Ngài khai sơn chùa Huỳnh Long, thôn Huỳnh Mai.
Đến năm Kỷ Hợi (1899) niên hiệu Thành Thái thứ
11, Ngài về trú trì chùa Thiên Hòa.
Ngài sinh năm Quý Tỵ (1833), tịch năm Canh Tuất (1910)
giờ Tỵ mùng 4 tháng 10 năm Duy Tân thứ 4, thọ 88
tuổi. Tháp Ngài hiện ở hướng Đông Nam chùa Thiên
Hoà.
Đệ tử ngài gồm có:
* Huý Ấn Đoan, Ấn Sinh thừa kế Tổ Đình Phổ Bảo.
* Huý Ấn Phước, sáng lập chùa Tây Thiên, thôn Liêm Trực, xã
Nhơn Hưng, huyện An Nhơn, Bình Định.
* Huý Ấn Thành, tái thiết và trú trì chùa Sơn Triều, thôn
Quy Hội, xã Phước An, huyện Tuy Phước, Bình Định.
3.
Ngài Hoằng Nghĩa, tự Tổ Vị, huý Ấn Đoan. Tương truyền Ngài là vị Thiền sư
tăng tướng đường đường – oai nghi khả kính,
diện mạo viên mãn, thế trí biện tài, Hán – Việt
siêu nhân. Ngài được chiếu thỉnh của triều đình
thường vào triều nội giảng giải kinh luận cho
Vương, Thần, Quốc, Thích, cung phi thể nữ. Trong
đời trú trì của Ngài, chùa bị hoả hoạn rất nặng:
Toàn bộ pháp khí đều bị thiêu hủy... Ngài đã tái
thiết quy mô theo kiểu lá mái xưa, tiền đường
hậu tẩm, đông tây đối diện.
Ngài sinh năm Tân Dậu (1861) tịch giờ
ngọ, ngày 26 tháng 8 năm Canh Dần (1900) mộ Ngài
ở núi Phổ Trạch.
Tử đệ của Ngài tuy nhiều, duy còn một vị thừa kế
Tổ Đình Phổ Bảo là Chơn Thành Đại Sư.
4.
Huý Ấn Sinh - thế danh Nguyễn Hậu, tự Ngộ Hiền. Trú trì Tổ Đình Phổ Bảo
từ năm 1900 đến 1910, thì vướng trần duyên.
5.
Ngài Chơn Thành, hiệu Phước Khánh - Đệ tử ngài Ấn Đoan. Đời Ngài trú trì do
âm hưởng của bổn sư: Ngài Ấn Đoan là vị tài hoa
lỗi lạc, danh đức nhất thời, hương quyền tộc
thuộc đều khiếp sợ, do đó nên ngài Chơn Thành
thừa kế bị phải hai thế lực trên cưỡng chế.
Ngài nhiễm bệnh tại trường hương Tổ Đình Long
Khánh - Quy Nhơn, khi đưa Ngài về đến Tổ Đình
Phổ Bảo thì Ngài đã tịch. Lúc bấy giờ hương
quyền tộc thuộc hay tin, đem đồ tẩm liệm ngay
tại chỗ, đồng thời đem táng Ngài tại đầu núi Phổ
Trạch, Ngài không có đệ tử.
Ngài sinh năm Mậu thìn (1868). Tịch năm Đinh mão (1927)
thọ 60 tuổi.
6.
Ngài Tâm Ấn, húy Như Hòa (đệ tử ngài Chơn Hương chùa Hưng Khánh) được
hương quyền, tộc thuộc cùng bổn đạo cung thỉnh
về trú trì Tổ Đình Phổ Bảo vào năm Nhâm thân
(1932). Khi Ngài về trú trì được sự tận tình ủng
hộ của hào sĩ binh dân, và tộc thuộc cùng bổn
đạo, nên năm Ất hợi (1935) Ngài trùng tu toàn
diện Tổ Đình.
Đến năm Canh thìn (1940), niên hiệu Bảo Đại thứ 15,
ngài đã tu phương tái thiết từ Nam Bắc sang
Đông tây.
Ngài là vị tài đức đáng kính, hoạt bát lanh lẹ, cư xử
lịch thiệp, tâm đại hoan hỷ, khi Phật sự cần
Ngài đều đảm trách chu toàn. Vậy cho nên bề trên
ai cũng mến, kẻ dưới ai cũng tin.
Vô hình trung, cuộc đời hành đạo của Ngài chia đôi thời
gian một cách gần cân đối: Ngài nhận trú trì Tổ
Đình Phổ Bảo năm Nhâm thân (1932). Trao trách
nhiệm lại cho đệ tử là Ngài Bảo An vào năm Mậu
tý (1948). Thời gian Ngài phụng sự đạo pháp tại
Tổ Đình Phổ Bảo là 16 năm. Từ năm 1948, Ngài về
lo tang lễ Hòa thượng Bổn sư – ngài Chơn Hương
hiệu Chí Bảo - tại chùa Hưng Khánh và Ngài kế
thừa ở đó luôn. Đến năm Quý mão (1963) viên tịch.
Thời gian Ngài phụng sự tại chùa Hưng Khánh là
15 năm. Vậy trong 31 năm kể từ ngày xuất thân
hành đạo chia đôi thời gian một cách rất là kỳ
diệu cho hai ngôi Tam Bảo mà có trách nhiệm trực
tiếp của Ngài.
Nói chung những tự viện thuộc phái Lâm Tế Chúc Thánh ở
vùng Tuy Phước và An Nhơn, sau hiệp định Genève
Ngài đều trực tiếp và gián tiếp chủ trương tái
thiết tùy khả năng của mỗi trụ xứ.
Thế danh của ngài là Phan Hòa, cháu kêu ngài Chơn
Hương họ Phan bằng Bác. Ngài Tâm Ấn, sinh năm
Đinh Dậu (1907) tại thôn Hưng Nghĩa, Tuy Phước.
Tịch giờ thân mồng 5 tháng Giêng năm Quý mão
(1963). Tháp Ngài hiện ở hướng Đông nam chùa
Hưng Khánh.
Đệ tử ngài gồm có:
*
Húy Thị Huệ hiệu Bảo An kế thừa Tổ Đình Phổ Bảo và chùa
Hưng Khánh.
* Húy Thị Thượng hiệu Bảo Phước trú trì chùa Phước Điền,
Tuy Phước.
* Húy Thị Trình, trước trú trì chùa Sơn Bình, thôn Bình An;
sau xây dựng chùa Bình Nam thôn Nam Tăng, xã
Phước Thành, huyện Vân Canh.
* Húy Thị Long, trú trì chùa Hải Phong, thôn Lộc Hạ, xã
Phước Thuận.
* Hiệu Bảo Vân (cầu pháp) xây dựng và trú trì chùa Tịnh
Quang xã Phước Thắng.
* Hiệu Bảo Nghiêm (cầu pháp) xây dựng và trú trì chùa Nam
Thạnh, thôn Thế Thạnh (nay thuộc phường Trần
Quang Diệu, thành phố Quy Nhơn).
7.
Ngài Bảo An, húy Thị Huệ, thế danh
Lê Bảo An, sinh quán thôn Tịnh Bình,
xã Nhơn Hạnh, huyện An Nhơn, Bình Định. Ngài là
con Lê gia thế phiệt, đời đời tôn sùng Đạo Phật.
Ngài xuất gia năm Bính dần (1926) tại Tổ Đình
Phổ Bảo.
Đời hành đạo của Ngài đã đóng góp những công tác Phật
sự:
- Sáng lập viên Đoàn Thanh niên Tăng sĩ Bình Định, được bầu
làm Phó trưỏng đoàn năm 1947.
- Chính thức nhận trách nhiệm trú trì Tổ Đình Phổ Bảo năm
Mậu tý (1948).
- Hội trưởng Hội Phật giáo Tuy Phước (1949).
- Cổ động viên thành lập chúng Lục Hòa tỉnh Bình Định (1949)
và Chúng trưởng Tuy Phước (1951).
- Cố vấn đoàn chúng A –Nan (1952).
- Hội trưởng Hội Phật Giáo Việt Nam Tuy Phước 1957 - Sau
hiệp định Genève.
- Thành viên sáng lập Tu Viện Nguyên Thiều – Bình Định
(1958). Được bầu làm Phó ban quản trị khóa 1 (năm
1960).
- Đặc Ủy nghi lễ trong Ban Đại diện Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam Thống Nhất tỉnh Bình Định năm 1964, khóa 1.
- Chánh Đại diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
huyện Tuy Phước năm 1965.
- Đặc ủy tăng sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh
Bình Định năm 1968, khóa 2.
- Phó Giám đốc Phật học viện Nguyên Thiều (năm 1969) khóa 2.
- Đặc Ủy cư sĩ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh
Bình Định năm 1973, khóa 3.
- Phó Ban đặc cách giáo dục nam – nữ Cư sĩ Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Nghĩa Bình năm
1979, khóa 1. Và Đặc cách đại diện Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất huyện Tuy Phước.
Năm Giáp thìn (1964), Ngài tái thiết chánh điện chùa
Hưng Khánh, cùng năm đó Ngài vào Sài Gòn được
tín đồ cung thỉnh nhận chức trụ trì chùa Giác
Uyển, cuối năm Ngài
tái thiết ngôi chùa này (chùa Giác Uyển vốn trước
là Niệm Phật Đường Ấp Tây Ba).
Năm Qúy sửu (1973) tái thiết hậu tổ và đông tây đường,
trù gia chùa Hưng Khánh.
Năm Canh ngọ (1990) Ngài trùng tu chánh điện Tổ Đình
Phổ Bảo.
Đệ tử Ngài gồm có:
* TT. Thích Huệ Minh trú trì chùa Giác Uyển quận Phú Nhuận,
Sài Gòn.
* TT. Thích Thiện Tấn thừa kế chùa Hưng Khánh.
* TT. Thích Thiện Thức duy trì Tổ Đình Phổ Bảo.
* ĐĐ. Thích Đồng Văn hiện đang du học tại Đại Học Delhi - Ấn
Độ.
* ĐĐ.Thích Thiện Thông trú trì chùa Vân Sơn.
* ĐĐ.Thích Thiện Đức trú trì chùa Nguyên Giác (hiện đang cư
trú tại chùa Huỳnh Kim quận Gò Vấp, Thành phố Hồ
Chí Minh - 1997).
* ĐĐ. Thích Thiện Thâm trú trì chùa Bích Nam.
* ĐĐ. Thích Thiện Viễn trú trì chùa Tịnh Quang.
Ngài Bảo An sinh năm Giáp dần (1914) hiện thọ 84 tuổi
(1997).
8.
Đại đức Thích Đồng Chơn, thế danh Lê Ngọc Anh, tự Thông Đức, hiệu Thiện Thức; duy
trì sự nghiệp của Bổn sư, truyền đăng tục diệm
của chư Tổ. Thầy vốn là cháu gọi ngài Bảo An
bằng Chú. Thầy xuất gia từ nhỏ nên Bổn sư đặt
pháp danh thầy là Đồng Chơn. Thầy vốn có đức
tính hài hòa, hoạt bát nên được mọi người quý
mến. Với quan niệm vừa tu tâm theo Đức Phật, vừa
tu thân giúp ích cho đời, vì thế bên cạnh việc
tu niệm Thầy còn là người tham gia nhiều công
tác xã hội... Hiện Thầy đang phụng dưỡng Hòa
thượng Bổn sư tuổi đã về chiều.
Thầy sinh năm Nhâm thìn (1952), thọ Đại giới năm Qúy
sửu (1973) tại Nha Trang...
III. ĐẶC ĐIỂM
Tổ Đình Phổ Bảo thuở xưa là nơi các quan phủ, huyện,
phẩm hàm thường đến lễ bái và tu học. Chùa Hưng
Khánh sản xuất nhiều hương trầm, chùa Phổ Quang
có nhiều ruộng, nên trong dân gian thường truyền
tụng câu: “Phổ Bảo nhiều bánh; Hưng Khánh
nhiều nhang; Phổ Quang nhiều lúa” để nói về
ba ngôi chùa cổ toạ lạc tại huyện Tuy Phước tỉnh
Bình Định ngày nay.
Địa chỉ liên lạc:
TT. THÍCH ĐỒNG CHƠN (Trụ Trì)
CHÙA PHỔ BẢO
thôn Phổ Trạch, xã Phước Thuận,
huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định - VIỆT NAM
Điện thoại: (+84) 56 – 633044
Email: phobao@googlemail.com
 |