PHẬT GIÁO VIỆT NAM
PHẢI LÀ PHẬT GIÁO TRẺ
LIÊN HÀ

Trẻ
hoá Phật giáo là nhiệm vụ hết sức quan trọng cấp
thiết trong giai đoạn hiện nay. Giai đoạn mà cơ
hội đã mở ra những thách đố thì rất nhiều!

Khoa
học kỹ thuật phương Tây phát triển, công nghệ
tiên tiến trong thị trường kinh tế nhảy vọt, thế
giới vật chất tràn ngập, văn minh văn hoá… tất
cả đang ồ ạt tiến về phương Đông. Tất nhiên kéo
theo một lượng khổng lồ rác rưởi văn minh, văn
hoá độc hại... Không những dân tộc Việt Nam mà
ngay cả chính những nhà làm đạo như Tăng ni trẻ
cũng đang bị đe doạ nghiêm trọng bởi môi trường
này.
Bên
cạnh đó là sự thất bại tất yếu của Thiên Chúa
giáo ở phương Tây, một sự tẩy chay độc ác, sáng
suốt và lạnh lùng của khoa học thực nghiệm đã
dần dần lấy đi vị trí độc tôn của Thiên Chúa tại
bản xứ của mình, buộc họ phải mở rộng phạm vi
đất thánh sang vùng Á Châu đang phát triển này.
Với một đội ngũ hùng mạnh, tinh nhuệ về tinh
thần lẫn tri thức kèm theo những chiến lược rốt
ráo triệt để như thế, thì e rằng cái già nua lụ
khụ của Phật giáo Việt Nam hiện nay liệu sẽ làm
được gì?
Nếu
Phật giáo Việt Nam không tự mình vươn dậy, không
nỗ lực thay đổi bộ mặt cầu an của mình thì bốn
mươi năm nữa Phật giáo Việt Nam chỉ còn là dĩ
vãng, vị trí ảnh hưởng Phật giáo trong xã hội
không còn, cái đạo tâm trong lòng dân tộc mà từ
ngàn xưa các vị Tổ Sư đã dày công bồi đắp cũng
mất đi. Trong khi dân tộc là cái gốc muôn thuở
để đạo Phật tồn tại, song hành và hướng về.
Không có dân tộc đạo Phật không còn có giá trị,
vì đạo Phật phục vụ cho con người, phục vụ
cho xã hội chứ không phục vụ cho một chính thể
nào cả. Cho nên dân tộc là quan trọng, là
sức sống của đạo Phật, nếu mất đi niềm tin của
dân tộc đạo Phật chẳng khác gì báu vật trong
viện bảo tàng, chỉ có giá trị trưng bày để mọi
người tham quan thán phục là hết… Những Tăng ni
trẻ, là trụ cột của Chánh Pháp, là người đại
diện Phật làm việc Phật (tác Như Lai sứ hành Như
Lai sự) thì không thể đứng nhìn đạo Phật đi vào
quên lãng được. Hãy là một chiến sĩ dõng mãnh
dấn thân vì Đạo Pháp và Dân Tộc. Hãy tôn trọng
lý tưởng mà ta đã chọn lúc ban đầu. Đừng trì trệ
mà cơ hội qua đi để lại nỗi niềm ân hận về sau.
Giờ
đây Tăng ni trẻ thử nhìn lại cơ cấu tổ chức hành
chính của Giáo Hội, khoảng mười năm hai mươi năm
nữa những vị lãnh đạo gọi là tinh tuý của Phật
giáo Việt Nam nằm xuống thì ngôi nhà Phật Pháp
sẽ ra sao, trong khi “tre đã già mà măng vẫn
chưa mọc”? Nói măng chưa mọc thì hơi quá! Tất
nhiên “măng mọc” rất nhiều nhưng phần lớn còn
rất non yếu về kiến thức, đạo hạnh lẫn sự nhiệt
huyết dấn thân làm Đạo. Còn số vị mang bầu nhiệt
huyết thì quá ít ỏi tựa như lá mùa thu lác đác,
rời rạc trên cành thì làm sao gánh vác nổi cái
trọng trách “Trụ pháp vương gia trì Như Lai tạng”
? Sở dĩ Phật giáo Việt Nam bị một lỗ hổng lớn về
nhân sự là bởi quá trình đào tạo Tăng ni bị gián
đoạn một thời gian khá dài trong chiến tranh và
sau chiến tranh. Vì thế Tăng ni trẻ không nên
tiếp tục để tình trạng này kéo dài mà ngay từ
bây giờ hãy nỗ lực tu học, hăng say với lý tưởng,
mạnh dạn dấn thân vào cuộc đời. Lấy sự nghiệp
phục vụ chúng sanh làm niềm vui sức sống cho
mình. Lấy sứ mạng độ sinh để duy trì mạng mạch
Phật Pháp. Lấy lý tưởng thành Phật để nêu cao
ngọn đuốc trí tuệ và từ bi. Có như vậy thì Phật
giáo Việt Nam mới thật sự mạnh mẽ, trẻ trung,
vững bước hành đạo trước những thách đố hiện
nay.

Trong
thời đại của thế giới vật chất nhưng đồng thời
cũng tràn ngập nỗi đau, nỗi bất hạnh và tội lỗi,
Tăng ni trẻ hãy mạnh dạn cải cách cái ý thức hệ
lỗi thời đã có từ ngàn xưa, là đặt nặng vấn đề
“tĩnh tại”, “hướng nội” cho chính bản thân mình,
cho rằng tu sĩ chỉ nên lo việc tu trì còn thế sự
thì không nên can dự. Đạo Phật sẽ khô cứng, sẽ
khó tiếp nhận, không thực tế, lý thuyết suông,
có khi trở thành cổ vật trong phòng trưng bày,
quý giá trang trọng nhưng vô dụng. Tăng ni trẻ
phải khơi dậy sự nhiệt tâm dấn thân đến những
vùng xa xôi, ở đó con người khao khát được nhìn
thấy hình ảnh Phật, Pháp, Tăng. Ở đó họ rất cần
sự giúp đỡ, yêu thương, cần chia sẻ những khó
khăn trong đời sống vật chất lẫn tinh thần.
Những em bé lọ lem nhưng tình yêu của chúng thật
thà chất phác vô cùng, đôi mắt ngây thơ ngơ ngác
của chúng chắc chắn sẽ long lanh sáng rỡ khi đón
nhận tình yêu thương của quý Tăng ni trẻ dễ
thương và nhiệt huyết. Nếu chúng ta xem thường
hay ngại khó thì một mai kia chúng sẽ quỳ hết
bên chân tượng những giáo chủ cuồng vọng và
không minh triết mà không biết Phật trong truyện
cổ tích là ai. Thật là buồn cười khi cha mẹ
chúng làm lụng vất vả để có bát cơm, nhưng mỗi
bữa ăn chúng lại cảm ơn “đấng bề trên” đã ban
cho chúng bữa cơm này! Vì thế Tăng ni trẻ không
nên bỏ lỡ cơ hội giáo dục này.
Chúng
ta phải công nhận một điều là Thiên chúa giáo
làm rất tốt công việc phục vụ xã hội. Là Tăng ni
trẻ đầy niềm tin và nhiệt huyết lẽ nào thua kém
họ, ta không những phải học hỏi mà còn phải làm
tốt hơn họ. Phục vụ xã hội, nhất là cho những
người đang đau khổ và mặc cảm tội lỗi sẽ tạo
được nhịp cầu bằng chất liệu cảm thông, sẽ đem
đến cho họ hạnh phúc và ấm áp trong hào quang
của chư Phật, trong niềm tin và lòng thương yêu
của quý Tăng ni, mặc dù chúng ta còn khó khăn về
vật chất. Và chúng ta đã tự hào rằng đã đưa họ
đến đạo từ bi và trí tuệ mà không phải để họ lâm
vào đất thánh với gươm, súng, thuốc nổ và chế độ
thực dân.
Một
đối tượng nữa mà chúng ta phải quan tâm đó là
trẻ thơ, chủ nhân của tương lai. Tâm hồn trẻ con
thật ngây thơ trong sáng như trang giấy trắng
tinh nhưng dễ dàng bị vấy bẩn và cũng dễ in lên
đó những bức tranh tuyệt đẹp như tình cảm thiêng
liêng của gia đình, thầy cô, bạn bè, hàng xóm;
sự hiếu thảo với ông bà cha mẹ, biết thương xót
những người bất hạnh, tàn tật, nghèo khổ… Những
trang giấy trắng thơ ngây ấy nếu ta không nhân
cơ hội này mà vẽ lên đó những bức tranh đẹp, ý
nghĩa thì thật đáng tiếc vô cùng. Chúng ta hãy
tạo ra những trò vui chơi giải trí lành mạnh,
tưới tẩm lòng từ bi và trí tuệ của đạo Phật cho
các em để chúng sẽ cảm thấy nhẹ nhàng trong
sáng, vui vẻ thoải mái trong vui chơi cũng như
trong học tập.
Như
vậy chúng ta có thể ngăn chặn, giảm thiểu những
trò giải trí bạo lực, kích động, nhảm nhí, thiếu
văn hoá đạo đức mà hiện nay thanh thiếu niên đam
mê quay cuồng chạy theo. Chúng không hề biết hậu
quả nghiêm trọng như thế nào, trong khi hậu quả
đó có thể kéo dài sang nhiều thế hệ, mà dù có
biết chúng cũng lờ đi vì không thể chủ động
trong sự đam mê thôi thúc. Và những tác động này
đã chi phối không ít trẻ em về tư tưởng lẫn hành
động. Chúng đi học với những con dao, những tập
truyện kích động đồi trụy, những đĩa game bạo
lực với những hình ảnh thiếu nét đẹp kín đáo của
văn hoá Việt Nam. Chúng sẵn sàng đối xử với cha
mẹ thầy cô bạn bè bằng những lời lẽ xấc xược,
bằng tay chân dao gậy… Lớp lớn hơn thì đam mê
nhậu nhẹt, tranh giành, đâm chém, chìm ngập
trong cơn điên lắc lư nhảy nhót trong cái lâng
lâng trên mây của heroin, thuốc phiện, phim ảnh
đồi trụy…. kiểu ăn chơi sa đọa này là nguyên
nhân dẫn đến hành vi phạm pháp của trẻ vị thành
niên. Trong khoảng mười năm trở lại đây, số
lượng trẻ vị thành niên phạm pháp tăng lên đáng
kể trong các trại giam, trại phục hồi nhân phẩm.
Đây
là vấn đề nan giải hiện nay mà các bậc phụ huynh,
các nhà giáo dục, các nhà văn hoá, cũng như
chính quyền Việt Nam đang lo lắng và tìm giải
pháp ngăn chặn. Nói như vậy không có nghĩa là
Phật giáo chúng ta không quan tâm nghĩ đến, mà
là chúng ta còn thiếu sự can đảm dấn thân, sự
nhiệt tâm hăng hái với cuộc đời, thiếu sự hy
sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích cộng đồng, và
nhất là thiếu sự hậu thuẫn, ủng hộ, dẫn dắt của
những “cái đầu” nhiệt huyết cống hiến. Ví dụ
“cái đuôi” có hăng hái mong muốn xông pha phục
vụ xã hội đến đâu nữa, thì cũng không thể làm gì
được, rồi cái tinh thần dấn thân phục vụ ấy sẽ
chết dần như cây non thiếu nước. Mong rằng các
nhà lãnh đạo thấy được những tiềm năng này để
quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho những cây
non nhiệt huyết vì đời và đạo có cơ hội phát
triển lớn mạnh.

Phật
giáo đã và đang chú tâm mạnh mẽ vào lớp thanh
thiếu niên này. Bằng cách mỗi Tăng ni trẻ ít
nhất phải mở một lớp giáo lý vui để học ở nơi
trú xứ của mình, đem truyện tiền thân đức Phật,
truyện cổ Phật giáo, truyện trong Lục Độ Tập
kinh… vẽ thành truyện tranh hấp dẫn giới trẻ thơ,
cũng nên tạo những chương trình game thấm nhuần
đạo lý Phật giáo, khuyên những bậc phụ huynh
không nên mua những đồ chơi có tính bạo lực như
súng, gươm, dao, người siêu nhân, các loại xe có
trang bị súng, pháo đài; không cho trẻ em xem
phim người lớn, phim có chém giết dã man, phim
siêu nhân. Không để trẻ tự do đọc các thứ truyện
bạo lực, truyện khiêu gợi sự tò mò về tính dục,
truyện tranh hở hang nham nhở thiếu văn hoá đạo
đức. Không khen những đồ trang sức bạo lực như
đầu lâu, bộ xương người, gươm, súng… là đẹp, là
nên đeo. Hạn chế những điều thấy nghe hay biết
không lành mạnh xung quanh trẻ. Hỗ trợ nhiệt
tình những hình thức chuyển tải giáo lý của Đức
Phật qua các chương trình phim ảnh, ca nhạc, cải
lương, sách báo, truyện tranh, nên làm bưu thiếp
có tranh ảnh Phật giáo vào những dịp xuân, Phật
đản, Vu Lan… để tặng Phật tử, người thân, bạn bè.
Ở thành thị trình độ dân trí cao, tư tưởng phóng
khoáng nhập thế nên hình thức truyền đạo này là
bình thường, nhưng ở thôn quê thì cần phải kêu
gọi cải cách nhiều hơn nữa.
Và có
một điều mà hầu như chúng ta vô tình xem nhẹ,
hay có thể nó không đủ toả sáng để chúng ta lưu
tâm? Một vấn đề rất ư quan trọng trong nghệ
thuật thu phục nhân tâm hay hoằng truyền chánh
pháp. Đó là vấn đề: Lễ hội tôn giáo.
Nếu
chỉ nhìn thoáng qua thì lễ hội là dịp để tín đồ
vui chơi, giải trí, nghỉ ngơi, du lịch, ngắm
cảnh v.v… không mấy quan trọng. Nhưng chúng ta
có biết chăng, giá trị thẩm thấu của nó vào lòng
người tựa hồ nhẹ nhàng như sương móc nhưng sức
lan toả và ảnh hưởng của nó đến không ngờ! Nó có
thể chi phối tư tưởng nhận thức con người qua
nhiều thế hệ, hay chi phối một đất nước, và ngay
cả một thế giới!
Lễ
hội là biểu thị văn hoá cho một tôn giáo, thể
hiện bản sắc truyền thống đặc trưng của một tôn
giáo mà không một tôn giáo nào có thể nhầm lẫn.
Và nhìn xa hơn, trong lễ hội luôn chứa đựng cái
chất nhân văn hoà chung với sự huyền nhiệm, làm
thăng hoa tính nhân bản cho tôn giáo đó. Vì thế
mà các lễ hội cho dù có khác nhau về hình thức
nhưng nội dung chỉ chung một khát vọng đó là
hạnh phúc miên viễn. Vì hạnh phúc là nỗi khát
khao của cuộc sống, là mục tiêu duy nhất của đời
người, là lý tưởng chính đáng mà con người luôn
luôn hướng đến. Cho nên thông qua lễ hội con
người được đáp ứng phần nào cái khát vọng trong
cuộc đời. Chính vì thế lễ hội tôn giáo là một
trong những vấn đề quan trọng hàng đầu, biểu thị
cái giá trị nhân sinh mà tôn giáo đó đề cao.
Phần
lớn Phật giáo chúng ta, có lẽ chưa nhìn thấy
được cái sức mạnh tiềm ẩn của lễ hội. Nhìn vào
một lễ hội người ta có thể đánh giá được sự phát
triển của tôn giáo đó như thế nào qua sự đồng
tình, phản kháng hay thờ ơ của người dân bản xứ
đối với lễ hội. Bởi vậy mà các vị thánh Do Thái
giáo đã bắt buộc tín đồ phải “đời đời kiếp kiếp
không được bỏ quên các lễ tết kỷ niệm”, mục đích
là để khơi gợi lại những trang bi hùng, những
mất mát đau thương, những chiến công oanh liệt
v.v. của các vị thánh tiền bối, để củng cố niềm
tin, tăng thêm nghị lực, hết lòng hiến thân vì
đạo.

Trong
khi Phật giáo lại cắt xén dần dần các ngày lễ
hội, đến nỗi Phật tử và ngay cả những tu sĩ trẻ
ngày nay hầu như ít biết gì về công lao xây dựng,
giữ gìn nước nhà của Phật giáo, mà đại diện là
các vị Thiền sư lỗi lạc tài ba thời Đinh - Lê -
Lý - Trần v.v., những thời vàng son của dân tộc
cũng như của Phật giáo, hay những cuộc tàn sát
đẫm máu, thiêu đốt đập phá tài sản văn hoá Phật
giáo v.v. Tất cả đều được bảo tồn ngay ngắn làm
bảo vật trong các thư viện, các tủ sách ở chùa
ít ai biết đến. Có chăng các Ngài chỉ được nhắc
thoáng qua trong những dịp lễ quan trọng rồi
thôi và chắc gì tên tuổi các ngài còn lưu dấu
trong lòng người tham dự? Thậm chí ngày tháng
các lễ vía của Chư Phật, Chư Bồ Tát cũng không
phải ai cũng nhớ hết. Lý do vì đâu? Phải chăng
vì tất cả chúng ta đã vô tình hay cố ý đơn giản
hoá rồi mai một từ từ đi?
Hiện
nay các ngày lễ kỷ niệm của Phật giáo dần dần
đơn điệu và nhạt nhẽo. Mức độ ảnh hưởng giảm đi
rõ rệt, nhất là với tầng lớp thanh thiếu niên
trí thức. Cũng dễ hiểu thôi, vì lễ hội Phật giáo
không còn đủ sức thu hút họ, chinh phục họ, gầy
dựng niềm tin nơi họ. Ví dù giáo lý của Đạo Phật
có hoàn hảo, huyền nhiệm đến đâu chăng nữa mà sự
hoằng pháp của Tăng ni cứ thờ ơ, an phận như vậy
thì cái cao siêu thiết thực của giáo pháp cũng
vô dụng mà thôi!
Bởi
thế Tăng ni trẻ phải có tầm nhìn thấu đáo sâu
rộng vào tương lai đạo pháp, vào giá trị thiết
thực của văn hoá lễ hội tôn giáo, để vạch ra
phương hướng kế hoạch rõ ràng cho những phong
trào tôn vinh những ngày lễ kỷ niệm của Phật
Giáo, để nó mau chóng thấm sâu vào lòng người,
quyện chặc vào ý thức dân tộc Việt Nam như máu
thịt. Hãy biến lễ hội tôn giáo thành lễ hội dân
tộc và xa hơn nữa là lễ hội của nhân loại, trở
thành di sản của văn hoá loài người. Chúng ta
không thể cam lòng để một tôn giáo gắn bó sắc
son với dân tộc Việt Nam như vậy lại ngày một xa
lạ, nhạt nhoà trong tâm hồn người Việt Nam…
Thế
giới đổi thay, con người thay đổi thì đạo Phật
cũng phải tuỳ duyên mà vận hành theo, nếu không
đạo Phật sẽ bị khô cứng, lỗi thời, mất niềm tin
(vô dụng, lý thuyết suông), bị lãng quên và chê
trách.
Tóm
lại, Tăng ni trẻ ngày nay hãy dương cao ngọn cờ
đạo pháp và dân tộc hơn nữa. Lấy tinh thần dấn
thân phục vụ xã hội làm sức mạnh, niềm vui và lý
tưởng sống. Lẽ đương nhiên chúng ta nhập thế
nhưng không bị hoà tan trong trần thế.
Mong
rằng những vị Tăng ni trẻ sau những giờ học căng
thẳng, hãy nên một lần suy gẫm về tương lai của
chính mình và tương lai của Đạo Pháp để định
hướng ngay trong giờ phút còn ngồi trên ghế nhà
trường. Với tôi, đây chính là những ước mơ cháy
bỏng trong lòng và tôi sẽ đi theo con đường mình
đã chọn: Đạo Pháp và Dân Tộc.
Liên
Hà

|