Ý
NGHĨA LỄ BÔNG HỒNG CÀI ÁO
HỒNG TUỆ
Mùa Vu lan về, tôi lại nặng trĩu lòng khi nhớ
đến Mẹ. Thực ra nói và viết về Mẹ đã là một việc
làm không phải, mà phải sống như Mẹ, sống tốt
với Mẹ, bây giờ Mẹ không còn thì dù ta có nói
hay mấy đi nữa cũng chẳng ăn thua gì đâu.
Tuy
vậy, trên thực tế vẫn có những câu thơ, những
áng văn bất hủ để ca ngợi hình ảnh thiêng liêng
và giá trị tình thương vô bờ bến của Mẹ, cũng
chính là để nhắc nhở những ai có hạnh phúc đang
còn Mẹ, rằng hãy đừng quên, và đừng làm Mẹ buồn
khổ.
Trong
nhân gian, ai mà lại không có Mẹ. Từ người làm
vua cho đến kẻ cùng đinh hạ tiện tất thảy đều do
Mẹ sinh ra và nuôi lớn. Mẹ của người làm vua và
Mẹ của kẻ cùng đinh hà tiện đều thương con như
nhau, dù khổ đau lam lũ hay hạnh phúc cao sang
thì giá trị tình thương của Mẹ vẫn luôn không
thay đổi. Thế nhưng những người con thương Mẹ
thì lại khác.
Cho
nên hàng năm, cứ đến mùa Vu lan, hầu hết người
Việt Nam, dù ở bất cứ nơi đâu, cũng đều tổ chức
lễ “Bông Hồng cài áo”, để tưởng nhớ công ơn của
Mẹ, dù còn hiện tiền hay không còn lưu dấu.
“Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa
màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ.
Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một
bông hoa trắng. Người được hoa trắng sẽ thấy xót
xa, nhớ thương không quên mẹ, dù Người đã khuất.
Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng
mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ,
kẻo một mai người khuất núi có khóc than cũng
không còn kịp nữa”.
(Tản
văn “Bông hồng cài áo” của Hoà Thượng
Thích Nhất Hạnh)
Tôi
cũng được cài bông hồng, nhưng lại “phải” cài
bông hồng màu Trắng, rất quý nhưng rất buồn.
Nhìn mọi người cài hoa cho nhau trong những ngày
lễ Cài bông hồng lúc trước tôi như chìm hẳn vào
dòng suy tư miên man, và bỗng suy nghĩ về xuất
xứ của ngày lễ này (lễ “Bông hồng cài áo”).
Lễ
cài bông hồng lên áo đã như là một lễ hội đối
với người Việt nói chung và giới Tăng Ni Phật tử
nói riêng, cho dù bạn có là Phật tử hay chưa
phải là Phật tử bạn cũng được tham dự và được
cài bông hồng, đó là giá trị tinh thần và giá
trị văn hoá, giáo dục cao. Đã là lễ hội vậy nó
có từ lúc nào? Tại sao lại là bông hồng mà không
là loại bông hoa nào khác? Và lễ hội này là của
người Việt Nam hay còn dân tộc nào khác?
Vào
những năm cuả thập niên 1960, cài bông hồng
trong một dịp kết thúc khoá tu do Hoà thượng
Thích Nhất Hạnh tổ chức, theo Ngài là có một ý
nghĩa đền đáp “Tứ ân” và để nhắc nhở với đại
chúng trong lúc tham dự, về sự biết ơn, báo ơn
nhằm hoá giải những oán kết giữa con người với
vạn loại trong cuộc sống vốn có nhiều mối ràng
buộc chằng chịt với nhau, đó cũng chính là tông
chỉ của tình thương và hoà hợp.
Sau
đó nghi thức “Bông hồng cài áo” được giới thiệu
với người Việt từ một cuốn sách cùng tên của Hoà
thượng Thích Nhất Hạnh, được viết vào tháng 8
năm 1962, cùng thời điểm đó nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ
đã sáng tác nhạc phẩm “Bông hồng cài áo” - đến
nay bài hát đó được coi như là “bài hát vàng”
(xin đừng hiểu lầm là “nhạc vàng). Từ đó
nghi thức cài bông hồng trong ngày Vu lan được
phổ thông hoá và trở thành ngày lễ, đến nay là
trên bốn mươi lăm năm.
Tại
Mỹ, Ngày của Mẹ được tổ chức vào ngày chủ nhật
thứ 2 của tháng 5. Đây là dịp mà những người mẹ
nhận được nhiều thiệp, quà và hoa. Ngày của mẹ
đầu tiên được tổ chức tại Philadelphia, năm
1907, dựa vào ý kiến của Julia Ward Howe năm
1892 và của Anna Jarvis năm 1907. Mặc dù trước
đó chưa hề có Ngày của Mẹ nhưng vẫn có những sự
kiện đặc biệt dành cho mẹ ở Hy Lạp trước đó để
tỏ lòng thành đối với Người mẹ của các vị thần,
Rhea, vợ của Cronut
Sau
đó, tại Anh, vào những năm của thập niên 1600
vẫn có những ngày gọi là Ngày chủ nhật của Mẹ,
được tổ chức trong dịp lễ Phục Sinh, vào ngày
chủ nhật thứ tư. Vào ngày này, những nô lệ được
trở về nhà thăm mẹ. Việc tặng mẹ những chiếc
bánh đặc biệt cùng với việc tổ chức lễ hội cũng
dần trở thành truyền thống.
Các
nước trên thế giới cũng tổ chức Ngày của Mẹ vào
những thời gian khác nhau trong năm. Tại Đan
Mạch, Phần Lan, Ý, Thổ Nhĩ Kì, Úc và Bỉ, ngày
của mẹ cũng được tổ chức vào ngày chủ nhật thứ 2
của tháng năm, sau dịp Lễ Tạ Ơn.
Nhật
cũng lấy ngày Chủ nhật thứ 2 trong tháng 5 là
ngày của Mẹ (Mother's Day). Trong ngày này, con
cái thường tặng mẹ hoa cẩm chướng đỏ (carnation)
và những món quà nho nhỏ để bày tỏ lòng kính yêu
mẹ.
Phong
tục này khởi đầu từ thành phố Grafton, West
Virginia (Hoa Kỳ) vào ngày 09 tháng 05 năm 1907
và người đầu tiên lấy hoa cẩm chường đỏ và trắng
để vinh danh các bà mẹ là cô Anna Jarvis. Cô là
người bỏ cả đời ra để vận động cho một ngày lễ
mẹ trên toàn quốc Hoa Kỳ để vinh danh các bà mẹ,
trong đó có thân mẫu của cô đã tận tụy nuôi 11
người con. Hôm đó là ngày chủ nhật mồng 9 tháng
5, Anna đã tổ chức một ngày Mother's Day trong
nhà thờ nhỏ tại Grafton. Khi đó, Mother's day
chưa được chấp thuận là National Holiday.
Anna
Jarvis từ Grafton, West Virginia bắt đầu cuộc
vận động để tổ chức Ngày lễ Quốc tế dành cho Mẹ.
Anna Jarvis thuyết phục mẹ của bà ở nhà thờ tại
Grafton để tổ chức Ngày của Mẹ ngay dịp giỗ của
bà ngoại của bà. Thế là một loạt các nghi thức
được tổ chức vào ngày 10 tháng 5 năm 1908 tại
Philadelphia vào năm sau đó. Cùng với một số
người khác, Anna Jarvis cũng bắt đầu viết những
lá thư vận động gửi đến các nhà cầm quyền,
thương nhân, chính trị gia để trình bày về việc
tổ chức Ngày của Mẹ và họ đã thành công. Woodrow
Wilson đã làm bảng thông cáo về việc chính thức
tổ chức Ngày của Mẹ vào ngày chủ nhật thứ 2 của
tháng 5 từ năm 1914.
Các
nước phương Tây có khởi nguồn phong tục ngày của
Mẹ (Mother’s day) vào sau dịp Lễ Tạ ơn, vì hầu
hết họ theo Thiên Chúa giáo, và dùng hoa cẩm
chướng đỏ và trắng là theo truyền thuyết Ki tô
giáo, hoa cẩm chướng sanh ra từ những giọt nước
mắt của Đức mẹ Maria lúc bà theo chân Chúa Jesus
trên đoạn đường vác thánh giá. Vì vậy, hoa cẩm
chướng tượng trưng cho tình yêu bất tử của người
Mẹ. Và trong ngày lễ là các con tặng quà, hoa,
thiệp và bánh cho Mẹ (chứ không phải tặng nhau).
Do
vậy ở người Việt ta có giá trị văn hoá và phong
tục Á đông (đại đa số là theo Phật), nên lấy ý
nghĩa tri ân và báo ân cha mẹ mà tặng hoa cho
nhau để nhắc nhở nhau kính trọng cha mẹ, sống
thật tốt với cha mẹ. Điều quan trọng là đối với
người Việt bông hồng thông dụng và dễ thương
nhất, mang quy ước biểu hiện tình yêu, và do có
một khởi đầu từ nghi thức tặng hoa hồng trong
khoá tu của Hoà thượng Thích Nhất Hạnh và giới
thiệu nó trong cuốn sách có tựa đề “Bông hồng
cái áo” của Ngài nên đến nay chúng ta sử dụng
hoa hồng trong ngày lễ, chứ thực ra hoa gì cũng
được, miễn đẹp là được rồi, với lại giá trị của
sự việc là ở chỗ tinh thần chứ không phải ở hoa.
Tấm lòng đẹp thì hoa gì cũng đẹp, tấm lòng đã
không đẹp thì hoa lưu ly cũng vậy thôi.
Hồng Tuệ
|