BÊN KIA SÔNG
HUỆ TRÂN
Chú mục
đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con
trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo, đôi
mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin
tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại
nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu
đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông.
Đây là
khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông
lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm
chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng
có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng.
Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh
mướt, đàn trâu gồm bảy con mà chú có bổn phận
chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực
nhọc cày bừa ngoài đồng lúa.
Chú rất
may mắn được có công việc chăn đàn trâu này cho
ông trưởng giả trong làng để có bột mì, bắp khô
và muối mè nuôi các em khi cha mẹ đều mất sớm.
Mà chú nào đã lớn mạnh gì cho cam, mới mười tuổi
đầu đã phải vừa làm cha, vừa làm mẹ! Chính tình
cảnh này mới được ông trưởng giả thương tình,
cho chăn trâu thử. Chú biết, công việc này rất
quan trọng cho sự sống còn của mấy anh chị em
nên chú hết sức cẩn trọng. Không chỉ chăm sóc
trâu kỹ lưỡng ngoài đồng mà trước khi lùa trâu
về, chú còn hái đầy hai sọt cỏ non để ban đêm
trâu nhẩn nha ăn tiếp. Chỉ sau tuần lễ đầu, ông
trưởng giả đã hài lòng, giao cho chú trọn công
việc.
Cũng
nơi đồng cỏ thuộc khu làng Uruvela, tây nam Ấn
Độ, chú mục đồng đã nhìn thấy một vị sa-môn ngồi
thiền dưới cội bồ đề bên kia sông. Qua dòng sông
cạn, đàn trâu quen lối đã thong thả đi về cánh
đồng cỏ mà chú còn đứng sững nhìn vị sa môn ngồi
tĩnh lặng, khép mắt. Chú đã từng thấy nhiều vị
sa môn đi qua làng, tu tập hay ngủ đêm trong
rừng nhưng chưa thấy ai ngồi thiền đẹp và trang
nghiêm, thanh thoát như thế.
Phút giây đó đã thành thiên thu
Vì vị
sa-môn ngồi thiền đẹp như tượng vẽ đó sẽ chính
là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Và chú
mục đồng nghèo khó sẽ chính là Đại Đức Cát Tường
trong tăng đoàn đầu tiên của Đức Thế Tôn.
Mười
năm, sau khi đạt đạo, Đức Phật đã trở lại ngôi
làng xưa, thực hiện lời hứa với chú bé chăn trâu,
người bạn trẻ mỗi ngày đều cúng dường cỏ non để
Ngài trải làm tọa cụ trong suốt thời gian thiền
định ở rừng bồ đề. Thời gian mười năm là để đứa
em trai kế của chú đủ sức thay anh chăn trâu,
nuôi hai đứa em gái nhỏ.
Năm đó,
Cát Tường vừa hai mươi tuổi, được nhập tăng
đoàn, cùng lên đường hướng về thành Vương Xá.
Trong
một buổi thuyết giảng ở tu viện Trúc Lâm, Đức
Phật đã yên lặng, nhìn khắp đại chúng, rồi ánh
mắt Ngài dừng lại nơi vị khất sĩ trẻ. Cát Tường
cảm nhận nơi ánh mắt đó bao nhiêu là kỷ niệm
thân thương của mười năm trước nơi cánh rừng bồ
đề. Và rồi, Đức Phật cất giọng trầm hùng:
“Này các vị
tỳ-kheo, hôm nay tôi muốn nói với quý vị về nghệ
thuật chăn trâu. Một em bé chăn trâu giỏi có thể
là một tu sĩ giỏi. Tại sao thế? Này, các vị hãy
nghe đây: Em bé chăn trâu giỏi biết nhận ra trâu
của mình, cũng như người tu sĩ giỏi nhận ra được
những yếu tố tạo nên sắc thân. Em bé chăn trâu
giỏi biết được hình tướng mỗi con trâu trong
đàn, cũng như người tu sĩ giỏi thấy được những
hành động nào của thân, miệng, ý là đáng làm hay
không đáng làm. Em bé chăn trâu giỏi biết cách
cọ xát, tắm rửa cho trâu, cũng như người tu sĩ
giỏi biết buông xả, gột rửa thân tâm khỏi tham
dục si mê. Em bé chăn trâu giỏi biết chăm sóc
các vết thương cho trâu, cũng như người tu sĩ
giỏi biết hộ trì sáu căn để sáu trần không lung
lạc được. Em bé chăn trâu giỏi biết cách đốt
khói un trâu để trâu khỏi bị muỗi đốt, cũng như
người tu sĩ giỏi biết đem giáo lý giải thoát
trao truyền cho người xung quanh để họ khỏi khổ
đau dằn vặt. Em bé chăn trâu giỏi biết tìm
đường đi an toàn cho trâu, cũng như người tu sĩ
giỏi biết tránh những lối đi dẫn tới danh lợi,
sắc dục, sân hận. Em bé chăn trâu giỏi biết
thương yêu trâu, cũng như người tu sĩ giỏi biết
quý trọng niềm vui thiền tập. Em bé chăn trâu
giỏi biết tìm bến tốt cho trâu qua sông, cũng
như người tu sĩ giỏi biết nương vào Tứ Diệu Đế.
Em bé chăn trâu giỏi biết tìm chỗ có cỏ non và
nước uống cho trâu, cũng như người tu sĩ giỏi
biết Bốn Lãnh Vực là mảnh đất tốt để phát sinh
giải thoát. Em bé chăn trâu giỏi biết bảo trì
những vùng thả trâu, cũng như người tu sĩ giỏi
biết cẩn thận khi tiếp xúc với quần chúng và
nhận sự cúng dường. Em bé chăn trâu giỏi biết
dùng con trâu lớn làm gương cho những trâu con,
cũng như người tu sĩ giỏi biết nương vào đức
hạnh và kinh nghiệm của những vị thầy đi trước.
Này các
vị tỳ-kheo, một tu sĩ thực hành được mười một
điều trên, có thể đạt quả vị A La Hán”.
Buổi
pháp thoại này, sau đó, được đại đức Ananda
trùng tuyên và cùng các trưởng lão trong tăng
đoàn soạn thành bổn “Phật thuyết về nghệ thuật
chăn trâu”.
Hình
ảnh đàn trâu nương nhau, vững tin, thanh thản và
an lạc vượt sông để qua bờ bên kia, nơi có cỏ
non, nước mát là một hình ảnh cảm động và tuyệt
đẹp. Nhưng để có niềm tin, thanh thản và an lạc
đó, chúng ta phải được sự hướng dẫn phát xuất từ
lòng thương yêu rộng lớn, sự tận tụy bền bỉ, tâm
vị tha bình đẳng. Đức Phật là tiêu biểu tuyệt
hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn
bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc
đời thị hiện ta-bà của Ngài.
Suốt
hơn bốn thập niên hoằng truyền đạo pháp, Đức
Phật đã đến với mọi tầng lớp trong xã hội, từ
vua quan, trưởng giả, cung tần mỹ nữ, tướng sĩ,
thương buôn, tới nghèo hèn, nô lệ, kẻ ác người
hiền, từ người lớn tới trẻ nhỏ, từ gia đình đông
đúc tới kẻ hiu quạnh cô đơn …
Tại sao
Đức Phật phải mở trái tim từ bi rộng lớn đến
thế? Vì sau bốn mươi chín ngày đêm thiền định
dưới cội bồ đề, phá tan ma quân, tìm ra con
đường thoát khổ, Ngài đã rõ cánh cửa ngục vô
minh kiên cố từng giam hãm mọi loài đã không trừ
một ai. Mọi hạng người trong xã hội đều có những
khổ đau riêng, những khổ đau thường rất sâu kín
vì họ phải che dấu để sống trong sự bình an giả
tưởng. Cái gì giả tưởng, trước sau rồi sẽ tan
vỡ; và che dấu càng lâu, sự tan vỡ càng khốn
đốn, nhưng không biết lối thoát nên nhân loại
vẫn tiếp nối nhau lăn trôi trong trầm luân.
Sau khi
nhìn rõ mặt mũi tên cai ngục Vô Minh, Đức Phật
đã thiền hành quanh một hồ sen và quán chiếu. Có
những bông sen còn hàm tiếu, có bông đã nở rộ,
có lá vươn cao, có lá còn nằm trên mặt nước. Đức
Phật biết, căn cơ thế gian cũng như thế. Muốn
giáo hóa họ, Ngài phải tùy duyên mà độ. Đến với
vua, phải hiểu cương vị và tâm trạng nhà vua;
đến với dân, phải hiểu hoàn cảnh và nỗi lòng thứ
dân; đến với người già phải thấu niềm đau người
già; đến với trẻ nhỏ phải hòa đồng sự thơ ngây
của trẻ nhỏ …
Khó
khăn như thế nên Ma Vương đã tới, yêu cầu Đức
Phật nhập Niết Bàn.
Vì
thương tưởng chúng sanh, Ngài đã thẳng thắn từ
chối.
Và Đức
Phật cất bước.
Nhập
thế.
Mang
đạo vào đời.
Tới bất
cứ nơi khổ đau nào có thể tới.
Độ bất
cứ hạng người nào có thể độ.
Bố thí
tất cả những gì có thể cho.
Nói lên
tất cả sự thật cần phải nói.
Con
đường Trung Đạo cứu khổ đã vạch ra.
Chỉ có
bước tới mà không lùi.
Chỉ có
dũng mãnh mà không sợ hãi.
Trong
sáng, an nhiên trước thị phi dối trá.
Bình
thản, vững tin trước âm mưu lọc lừa.
Từ bi
hỷ xả trước gian manh độc ác.
Bởi vì:
Kẻ thù
là sự vô minh.
Con
người là nạn nhân của sự vô minh.
Nạn
nhân nào cũng đáng thương như nhau.
Nạn
nhân nào cũng đáng được độ dưới cái nhìn từ bi
của Đạo Phật.
Những
Tăng Đoàn liễu nghĩa lời Phật dạy, Đã và Đang
theo dấu chân Đức Thế Tôn, NHẬP THẾ ĐỘ ĐỜI chứ
không chỉ làm Thanh Văn, Duyên Giác. Nhập thế
bằng Trí Tuệ. Lặng thinh trước thị phi. Dũng
mãnh đi trên đường Phật đi, mới thật sự là đền
ơn chư Phật.
Những
Tăng Đoàn đó, mang tinh thần vị tha bình đẳng,
đã và đang mở rộng trái tim, bước những bước
chân chánh niệm từ Âu sang Á, từ Đông sang Tây,
độ hết những ai cầu được độ.
Những
Tăng Đoàn đó, đã và đang noi gương chư Phật, chỉ
dùng thì giờ để độ đời, không gì đáng làm, đáng
nói hơn nữa. Vì làm gì mà không hướng mục đích
độ đời cũng chỉ là tham vọng vị kỷ ảo tưởng, là
lâu đài trên cát; nói gì mà không là lời chỉ dẫn
người thoát khổ cũng chỉ là vọng ngôn.
May
thay, giữa bao lâu đài trên cát, giữa bao kẻ mê
cuồng vọng ngôn vẫn còn những Tăng Đoàn,
lặng-thinh-Bát-Nhã, bi-tráng-tâm-hương để HÀNH
THEO HẠNH PHẬT.
|