CÂY LÁ VÀ CON NGƯỜI
HUỆ TRÂN
Theo
Phật-luật, hàng năm, giới xuất gia, tùy hoàn
cảnh và môi trường, phải câu hội về một nơi để
cùng thúc liễm thân tâm, trau giồi giới đức.
Thời gian đó được gọi là mùa An Cư Kiết Hạ.
An là
giữ thân nơi tịnh mặc tĩnh lặng. Cư là trụ, là
ở. Kiết là giữ tâm lại một chỗ. An Cư Kiết Hạ là
thúc liễm thân tâm vào nơi an tịnh trong mùa Hạ.
Trong tinh thần đó, trường Hạ là nơi quy tụ giới
xuất gia cùng về.
Ấy thế
mà, khi xưa, có trường Hạ chỉ độc nhất một người.
Trường hạ đó là rừng cây Sala thuộc một quận lỵ
nhỏ nằm hướng đông bắc, tả ngạn sông Hằng. Và
người về an cư kiết hạ ở đó chính là vị đã ban
luật an cư, là người đã đạt Giác Ngộ, là Đức Thế
Tôn.
Sao lạ
vậy?
Dường
như những gì xảy ra thời Đức Phật còn tại thế
đều không hoàn toàn ngẫu nhiên, mà tiềm ẩn sâu
sa là cơ duyên để Đức Phật chỉ dạy cho chúng
sanh thấy những mầm mống tạo ra khổ đau phiền
não.
Năm đó,
tại tu viện Ghosira thuộc tỉnh Kosambi, phía
đông nam Lộc Uyển xảy ra một vụ tranh chấp nội
bộ giữa một vị kinh sư và một vị luật sư. Nguyên
nhân rất nhỏ, nhưng vì tự ái lớn nên huynh đệ
bên nào thì đứng về phía thầy của mình bên đó.
Khi Đức Phật biết tin, Ngài lên tiếng khuyên cả
hai bên dẹp bỏ bản ngã, trở về với mục đích tối
hậu là tu học thì mọi người đều thỉnh cầu Đức
Phật đứng ngoài. Có lẽ vì họ đã quá lậm sâu vào
sân hận, không ai có thể nhường nhịn ai nữa!
Biết
thế, Đức Phật tĩnh tọa giây lát rồi lẳng lặng
đứng dậy, ôm bình bát, ra khỏi tu viện.
Đại
chúng nghĩ là Đức Phật chỉ đi khất thực rồi trở
về.
Nhưng
không.
Đức
Phật biết rằng, với những tâm sân hận đã hằn sâu
như thế, chẳng phải chỉ lời nói có thể đưa họ
trở về chánh đạo mà phải cho họ thực chứng bằng
sự đau khổ, sự thiệt thòi mới giúp họ tỉnh ngộ.
Như trong gia đình, có đứa con, cha mẹ chỉ dùng
lời nhẹ nhàng khuyên bảo cũng hiệu quả, nhưng có
lúc, nó bỗng ương ngạnh, lại phải dùng roi vọt
mới xong.
Với
cuộc xung đột ở Kosambi cũng thế.
Mùa An
Cư Kiết Hạ năm đó, Đức Thế Tôn không có mặt với
tăng đoàn. Sự thiếu vắng vị Thầy khả kính, không
được hướng dẫn, không được nghe pháp đã tạo nên
khoảng trống bất an rất lớn lao trong lòng từng
vị khất sỹ khiến những tranh chấp trước đây đối
với họ như không thể vượt qua được, nay trở
thành quá nhỏ bé.
Nhưng
đã trễ. Họ phải thấm thía đủ sự hối hận mới có
thể học bài học Lục Hòa mà Đức Phật sẽ tuyên
giảng.
Rời tu
viện Ghosira, Đức Phật ra khỏi tỉnh Kosambi,
theo hướng bờ sông mà đi…. đi mãi…. Tới sẩm tối,
Ngài tìm bụi cỏ nghỉ ngơi. Hôm sau, vừa hửng
đông, Ngài xuống sông tắm gội rồi nhắm phía bắc,
tả ngạn sông Hằng mà đi tiếp. Trưa hôm đó, sau
khi ôm bát vào làng khất thực, Ngài tìm thấy một
rừng cây êm mát, có suối nước trong, có nhiều
trái rừng đang ửng chín, nhiều chim muông và
những con sóc nhỏ hiền lành… Và Đức Phật
quyết định sẽ một mình An Cư Kiết Hạ tại khu
rừng im vắng đó. Chính nơi đây, Ngài đã làm bạn
với voi chúa, thường dẫn đàn voi con xuống suối
uống nước. Bên bờ suối đó, sau khi uống nước,
đàn voi thường phủ phục trước vị Đạo-sư tọa
thiền tĩnh lặng và hùng tráng dưới cội tùng. Voi
chúa cũng thường hái trái rừng cúng dường Đức
Phật, cùng với muôn chim líu lo trên cây, thỏ và
sóc chạy nhảy quanh Ngài. Tất cả tạo thành bức
tranh hài hòa trong tinh thần hòa bình tuyệt
đối.
Trên
thực tế, vì tham sân si luôn luôn chế ngự nên
thế gian không bao giờ có hòa bình lâu dài.
Những ai mơ ước điều đó đều bị nhìn như kẻ mộng
du! Nhưng, có ai từng quan sát những tàng cây
xum xuê cành lá không? Chiếc lá nào mọc ra ở đâu
thì tăng trưởng ở đó, tuy ngày càng rậm rạp
nhưng không thấy sự tranh giành, xô đẩy. Trái
lại, càng tăng trưởng thì dường như chúng càng
hòa hợp để mang lại sự lớn mạnh cho cây.
Con
người thì khác…
Tâm lý
con người thường sẵn mầm muốn chinh phục kẻ yếu
hơn mình nên trong bất cứ xã hội nào cũng có kẻ
quyền thế hiếp đáp người cô thế, kẻ giàu khinh
chê kẻ nghèo, xứ lớn luôn rình rập chiếm đoạt xứ
nhỏ để lớn hơn. Làm sao mà thế giới ta-bà không
tràn ngập khổ đau vì chiến tranh, chết chóc?
Con
người không thảnh thơi, hài hòa và an nhiên đồng
góp phần lớn mạnh cho đất mẹ quê cha của mình,
như muôn lá đã sống cho cây, muôn cây mạnh mẽ
xanh tươi đã sống cho rừng.
Một
lần, vua Pasenadi, quốc vương xứ Câu-Tát-La tìm
đến Đức Phật để xin chỉ dạy về hoài bão xây dựng
hạnh phúc cho dân chúng và nền hòa bình với các
xứ lân bang.
Đây là
những điều tưởng như đơn giản vì thường xuyên
được nhân gian đề cập tới; nhưng thực tế chẳng
đơn giản, bởi từ thế kỷ này qua thế kỷ khác,
không một vị vua nào không nghĩ tới, mà chẳng
mấy ai thực hiện được. Dân chúng đâu đâu cũng
đầy rẫy đau khổ vì phân chia giai cấp, các xứ
láng giềng thì luôn có mối nghi ngờ, hiềm khích,
như hỏa diệm sơn âm ỉ, bùng nổ bất cứ lúc nào!
Buổi
viếng thăm lần đó, vua Pasenadi được Đức Phật
tiếp trên chiếc chõng tre, trước tịnh thất.
Người im lặng lắng nghe nhà vua than thở, kể lể
những ưu tư khắc khoải đó. Và khi Đức Phật lên
tiếng thì vua Pasenadi sửng sốt, bàng hoàng.
- Bệ
hạ có thương yêu dân chúng của mình không?
- Thưa
Đức Thế Tôn, trẫm thương yêu dân chúng của mình
như các hoàng tử, công chúa vậy.
- Khi
gửi những người trai trẻ ra trận mạc, bệ hạ có
lo lắng cho tính mạng của họ không?
- Thưa
Đức Thế Tôn, khi gửi những người trai trẻ ra
trận mạc, trẫm đau khổ, lo lắng như gửi các
hoàng tử đi xa vậy.
- Khi
chiến tranh giữa hai nước xảy ra, ngoài sự lo
lắng cho những người trai trẻ của bổn quốc, bệ
hạ có thương xót và lo lắng cho những người trai
trẻ của nước đối nghịch hay không?
- Thưa
Đức Thế Tôn, khi chiến tranh xảy ra, trẫm thực
tình thương xót và lo lắng cho tất cả những
người trai trẻ đang lâm trận vì họ đều phải trực
diện sự nguy hiểm, sự đau đớn.
-
Đúng thế. Tôi tin rằng các quốc vương xứ khác
cũng cùng tâm trạng như bệ hạ. Không ai muốn đẩy
con cái của mình vào chốn hiểm nguy nhưng chiến
tranh luôn xảy ra là bởi sự khác biệt về ý thức
hệ mà do bản ngã tự tôn đã không chấp nhận nhau;
là do lòng tham, xứ nọ muốn thôn tính xứ kia để
giàu mạnh, rộng lớn hơn; là bởi sự nghi kỵ về
những âm mưu thôn tính đó nên nhân danh sự tự vệ
mà ra tay trước, v.v… Khi suy nghĩ và hành động
như thế thì lòng thương yêu dân chúng như bệ hạ
vừa nói, nằm ở đâu? Lòng thương yêu đó đã bị che
lấp mất rồi! Nếu những nhà lãnh đạo đều yêu
thương dân chúng xứ khác như dân chúng của mình
thì nền hòa bình thịnh vượng đương nhiên có mặt
trên khắp trái đất này, vì bao nhiêu tài nguyên,
kinh phí, sinh mạng thay vì đổ vào chiến tranh
sẽ được dùng để vun bồi, phát triển sự lớn mạnh
về cả hai phương diện vật chất lẫn tinh thần cho
đất nước mình. Đây không phải là điều quá lý
tưởng. Đây là điều có thể thực hiện được nhưng
nó không xảy ra chỉ vì những người nắm vận mạng
quốc gia đã không đồng thời cùng suy nghĩ và tin
tưởng như thế.
Trong
khi vua Pasenadi xúc động, mở lớn mắt thì Đức
Phật nhẹ nhàng kết luận:
-
Lịch sử nhân loại chứng minh một sự thật bất di
bất dịch mà người đời vẫn cố không tin. Đó là,
sự giàu có và an lạc của quốc gia này không bao
giờ bền vững do được tạo nên bởi sự nghèo khó và
chết chóc của quốc gia khác. Nếu mọi vị lãnh đạo
đồng dẹp được tham sân và nghi kỵ thì mỗi quốc
gia vẫn tự phát triển trong hạnh phúc mà không
cần tới bạo động.
Nghe
những lời dạy thực tiễn và từ bi đó, vua
Pasenadi đã quỳ xuống, lạy tạ Đức Phật.
Không
biết, trên đường về lại hoàng cung, nhà vua có
tình ngờ dừng lại dưới tàng cây râm mát của một
đại thụ để thấy những lời vàng ngọc đang an
nhiên, dễ dàng thể hiện trên đời sống của cây,
của lá.
Con
người, với trí tuệ sung mãn sao lại không thực
hiện được???
|