TÍCH HỢP VẬT LÝ &
PHẬT HỌC?
Giáo sư Tiến sĩ
CAO CHI
Liệu
có thể tìm một dạng học thuyết mô tả được thống
nhất các hiện tượng vật lý và những hiện tượng
thuộc phạm vi tâm linh. Đó sẽ là một dạng lý
thuyết thống nhất lớn mà con người có thể nghĩ
đến.
Trong
hiện trạng những vấn đề tâm linh vẫn đang ở
trong trong phạm trù triết học thì lý thuyết
thống nhất đó có thể là một sự tích hợp giữa vật
lý và triết học.
Theo
Einstein thì Phật học có thể là tiền thân của
một sự tích hợp như vậy. Ông nói: "Nếu có một
tôn giáo nào thích nghi được với những nhu cầu
khoa học tiên tiến thì đó sẽ là Phật giáo".
(If there is any religion that would cope with
modern scientific needs it would be Buddhism).
Trong
vòng hơn 2500 năm Phật học đã tích lũy quá trình
suy tư của nhiều tu sĩ minh triết để hình thành
một học thuyết sâu sắc về thế giới khách quan
lẫn thế giới tâm linh. Có thể nói Phật học là
một học thuyết về nguyên lý đã bao trùm cả vật
lý học (chuyên nghiên cứu thế giới khách quan)
và cả tâm linh học (chuyên nghiên cứu những vấn
đề thuộc tâm linh - theo Phật học thì tâm linh
là một phạm trù song đối với thể xác), vậy thì
Phật học có thể nói là một học thuyết có tính
thống nhất cao hơn cả vật lý.
Tuy
nhiên chúng ta cũng cần phân biệt hai phương
thức nghiên cứu giữa Vật lý và Phật học.
A. Phương thức nghiên cứu của Phật học là hướng nội vào tâm linh
con người
Theo
lịch sử Phật giáo thì Thái tử Tất Đạt Đa sau
nhiều năm tu khổ hạnh trong rừng già đã tìm thấy
chân lý của kiếp sống của con người, của các quy
luật trong vũ trụ. Liệu có một cơ sở khoa học
nào cho phương thức hướng nội này chăng?
Phương thức này có thể dựa trên cơ sở của nguyên
lý vị nhân. Nguyên lý vị nhân [1] là nguyên lý
theo đó ta thấy vũ trụ như thế này bởi vì nếu vũ
trụ khác đi thì ta không thể tồn tại được để mà
quan sát nó. Nguyên lý vị nhân có thể là sự cộng
hưởng, sự hòa âm, sự giao cảm giữa vũ trụ và con
người. Nếu như nguyên lý vị nhân (anthropic
principle) là đúng thì rất có thể tâm linh con
người có một mối liên hệ mật thiết với vũ trụ,
như thế biết khai thác tìm tòi trong tâm linh
người ta có thể khám phá ra vũ trụ (so sánh với
Socrate: biết bản thân con người sẽ biết được
cả vũ trụ). Phương thức hướng nội vào tâm
linh thực hiện qua Thiền định (meditation).
Thiền có nhiều dạng thức tùy theo môn phái và lộ
trình, giúp đạt nhiều mục tiêu: giác ngộ về lẽ
sống, tư duy về quy luật của vũ trụ, kỹ thuật
khí công, khơi dậy những tiềm năng kỳ lạ của con
người,...
Thực
tế với phương thức nghiên cứu này Phật học đã
đạt những thành quả về cả hai mặt liên quan đến
con người và vũ trụ. Riêng về phần con người
Phật học đã đi sâu vào những phần sâu thẳm của
tâm linh, vượt xa giới hạn của tâm lý học, của
học thuyết Freud. Hiện nay khoa thần kinh học
(neuroscience) cho rằng các phát hiện sinh học
của bộ não có thể tương hợp với nhau nếu được
tích hợp với lý thuyết Freud [3], song điều đó
cũng chưa thể giải thích được các khía cạnh sâu
thẳm của tâm linh, các công năng của Thiền định.
B. Phật học ngoài tâm linh con người còn phát hiện ra nhiều bản
chất quan trọng của vũ trụ của thế giới bên
ngoài nhờ sử dụng cộng hưởng của tâm linh với vũ
trụ
1. Vấn đề chân không
Như
chúng ta biết trong lý thuyết lượng tử có thể
nói vấn đề chân không là vấn đề quan trọng số
một. Chân không không phải là một "môi trường",
trong đó không có gì cả, trái lại chân không là
một loại "ether" đặc biệt chứa những thăng giáng
phần lớn của trường lượng tử điện từ. Chân không
có thể chứa 3 khả năng đối với vật lý hiện đại:
- Vì
chứa những thăng giáng điện từ, cho nên có thể
tính được năng lượng chân không theo phương pháp
phân tích Fourier (dao động tử) và thấy rằng
chân không có một năng lượng khổng lồ. Một hiện
tượng quan trọng xảy ra trong chân không là lực
Casimir và công nghệ nanô không thể không tính
đến lực Casimir.
-
Năng lượng chân không có thể là năng lượng tối
gây nên quá trình giãn nở có gia tốc của vũ trụ.
-
Cuối cùng là một khả năng quan trọng, có thể đó
là nguồn gốc để giải quyết bài toán thống nhất.
Nhà vật lý người Nga Andrei Sakharov đã đưa ra
một cách nhìn táo bạo vào năm1967: nguồn gốc
của hấp dẫn có thể là những thăng giáng của chân
không với sự hiện diện của vật chất, như vậy từ
chân không ta có hấp dẫn và các tia sáng sẽ bị
cong vì hiện tượng khúc xạ của chân không?
Hiện
nay nhiều nhà vật lý quan niệm rằng không - thời
gian được hình thành từ những thăng giáng lượng
tử của chân không (hình 1). Như vậy từ chân
không chúng ta có tất cả. Một điều kỳ diệu là
Phật học cũng đi đến một kết luận như thế!
Phật
học cũng xem chân không như nguồn gốc của mọi
hiện tượng và không phân biệt chân không với
hiện tượng qua luận thuyết nổi tiếng "Sắc tức
thị Không, Không tức thị Sắc". Trong Bát Nhã
Tâm Kinh, Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: "Này
Xá Lợi Phất! Thế giới hiện tượng hay Sắc này là
Không, và Không quả thực là thế giới hiện tượng.
Không không khác với thế giới hiện tượng hay Sắc,
thế giới hiện tượng hay Sắc không khác với Không.
Cái gì là thế giới hiện tượng thì cái đó là
Không, cái gì là Không thì cái đó là thế giới
hiện tượng".
2. Vấn đề đa vũ trụ
Trong
Vật lý học người ta nói đến những vũ trụ song
song cấu thành đa vũ trụ. Người ta phân các vũ
trụ song song thành 4 mức, ứng với 4 góc ở hình
vẽ 1.
Hình 1 -
hình này có 4 góc
I /
Góc trái trên: các vũ trụ song song mức I, cư
trú trong cùng một bong bóng (bubble), quy luật
vật lý giống nhau, các điều kiện ban đầu có thể
khác nhau, sự tồn tại của chúng dựa trên CMB Þ
vũ trụ vô cùng, vật chất phân bố đều trong vũ
trụ.
II /
Góc trái dưới: các vũ trụ song song mức II, cấu
thành bởi nhiều bong bóng, có cùng những phương
trình cơ bản vật lý song các hằng số vật lý, các
hạt cơ bản, số chiều không gian có thể khác, sự
tồn tại của chúng dựa trên lý thuyết lạm phát
hỗn độn vĩnh cửu.
III /
Góc phải dưới: các vũ trụ song song mức III: có
các tính chất như ở mức I&II, có nguyên lý
unitarity, nguyên lý này đúng ngay cả đối với
hấp dẫn lượng tử; theo mối tương quan AdS / CFT
có thể hiểu được rõ ràng hơn nghịch lý thông tin
trong lỗ đen. Trạng thái sống, chết của con mèo
Schrodinger thuộc 2 vũ trụ cổ điển song song.
IV /
Góc phải trên: nhiều cấu trúc toán học khác nhau
(với những phương trình vật lý khác nhau) sẽ cho
những vũ trụ song song khác nhau, sự tồn tại mức
IV dựa trên phỏng thuyết thực tại toán học º
thực tại vật lý, có thể kiểm nghiệm nhờ một lý
thuyết TOE.
Trong
Phật học, vũ trụ cũng mang tính đa nguyên. Phật
giáo phân thế giới thành 3 loại: Tiểu thiên,
Trung thiên & Đại thiên. Đại thiên thế giới gồm
khoảng một tỷ thế giới. Cách đây hơn 2500 năm
Phật học đã biết ngoài thế giới chúng ta đang
sống còn có hằng hà sa số thế giới khác.
Tuy
giữa các thế giới song song trong vật lý học và
các thế giới Phật học chúng ta chưa thể thiết
lập một mối tương hợp đồng cấu hoặc đẳng cấu.
Điều đáng nói ở đây là khái niệm đa vũ trụ là
quan điểm tạo nên sự thống nhất giữa vật lý học
và Phật học trong nhận định về vũ trụ.
Một
điểm đáng chú ý nữa là trong vật lý học cũng như
trong phật học người ta đều nói đến nhiều dạng
hình học của vũ trụ
3.
Tính vô thường
Hình 2 - Các thăng giáng của chân không lượng tử
(phóng theo tranh
Bọt thời gian của hoạ sĩ Jean-Michenl
Joy, L'Ecume du temps,
Saint Etienne,
1990)
Từ
những thăng giáng đó đã hình thành vũ trụ. Trong
vật lý học người ta quan niệm rằng mọi vật đều
luôn biến động. Ví như vũ trụ cũng luôn thay đổi,
hiện nay vũ trụ đang giãn nở, xuất phát từ một
bigbang.
Lúc
vũ trụ được 10-35 giây xảy ra quá trình nở lạm
phát (inflation) và kết thúc vào thời điểm 10-32
giây. Đây là một quá trình giãn nở bột phát của
vũ trụ: trong một thời đoạn ngắn ngủi, kích
thước của vũ trụ đã tăng lên 1050 lần. Quá trình
nở lạm phát có thể bắt nguồn với một dạng năng
lượng tối.
Sau
Bigbang 10-33 giây vũ trụ ở vào trạng thái
plasma của quark và gluon (PQG). Trong trạng
thái này quark chuyển động tự do và tương tác
với nhau bằng trao đổi gluon. Lúc vũ trụ được 10
- 6 giây thì hình thành các hadron. Lúc vũ trụ
được 100 giây thì các hạt nhân nguyên tử được
hình thành. Lúc vũ trụ được 300.000 năm tuổi thì
bức xạ tách khỏi vật chất và dẫn đến CMB (Cosmic
Microwave Background - bức xạ tàn tư của vũ trụ).
Sau đó vũ trụ nguội dần và nhiều quá trình
chuyển pha đã xảy ra.
Vậy
vũ trụ luôn biến đổi. Thậm chí các hằng số vật
lý có thể thay đổi theo không gian và thời gian.
Các phương trình vật lý đều chứa những hằng số
như c-vận tốc ánh sáng, h-hằng số Planck, G-hằng
số hấp dẫn. Người ta vẫn cho rằng đó là những
đại lượng không thay đổi theo không gian và thời
gian.
Hình 3 - Hai màng chuyển động trong một không
gian nhiều chiều và va chạm nhau
Theo
nhiều kịch bản vũ trụ luôn tồn tại. Trước
Bigbang vũ trụ có kích thước lớn vô cùng, sau đó
co lại và vào thời điểm Bigbang trở thành nhỏ
như để chui qua một lỗ kim xong giãn nở trở lại.
Theo
kịch bản của Gabriele Veneziano, vũ trụ nguyên
thuỷ đã co lại từ những thăng giáng và tạo nên
những lỗ đen, trong những lỗ đen này đã xảy ra
những bigbang, trong số đó có Bigbang của chúng
ta.
Như
vậy mỗi lỗ đen có thể tạo ra những vũ trụ riêng
của đa vũ trụ. Một điều có thể khẳng định: quá
trình chuyển tiếp giữa "tiền" và "hậu" bigbang
vẫn là một vấn đề còn bỏ ngõ. Người ta cho rằng
có thể có thông tin về thời kỳ tiền bigbang nhờ
thu các sóng hấp dẫn phát sinh từ thời kỳ này,
dấu tích của chúng sẽ là những thăng giáng trên
phông của bức xạ tàn dư.
Phật
học có quan điểm vô thường khẳng định sự biến
đổi thường trực của vũ trụ như trong vật lý học.
Vô thường có nghĩa là không thường, không mãi
mãi ở trong một trạng thái nhất định mà luôn
thay đổi hình dạng. Đi từ trạng thái hình thành,
cao to, thấp nhỏ, tan rã v.v.. Đạo Phật gọi đây
là những giai đoạn thay đổi: thành, trụ, hoại,
không. Tất cả sự vật trong vũ trụ, từ nhỏ
đến lớn như hạt cát, thân con người, đến lớn như
trái đất, mặt trăng, mặt trời, đều nằm trong
định luật vô thường. Mọi vật trên đời này đều
phải thay đổi và hoại diệt, không vật gì thường
hằng dù chỉ trong phút giây (birth, maturity,
transformation and destruction).
Quan
điểm vô thường của Phật học trùng hợp một cách
chính xác với quan điểm mọi vật đều biến đổi
trong vật lý học.
C.
Kết luận
Phật
học không những có những mối tương đồng với vật
lý trong các lĩnh vực vũ trụ học, các hạt cơ bản,
mà còn nhiều mối tương đồng khác với sinh học,
tâm lý học, phân tâm học (psychoanalysis), tâm
lý trị liệu (psychotherapy)... Tư tưởng Phật học
có thể là suối nguồn dồi dào cho khoa học nói
chung.
Tích
hợp các lý thuyết lớn trong vật lý với những tư
tưởng Phật giáo hy vọng sẽ dẫn đến một "lý
thuyết thống nhất" bao trùm vũ trụ và tâm
linh con người.
GS.TS. Cao Chi
(theo Phật Tử
Việt Nam)
============================
Tài
liệu tham khảo:
[1] Fritjof Capra,
The Tao of Physics
[2] S. Hawking, Lược
sử thời gian, bản dịch của Cao Chi & Phạm Văn
Thiều
[3] Mark Solms,
Scientific American, tháng 5 năm 2004
[4] Edward Conze, A
short history of Buddhism |