Yếu Tố Mật Giáo Trong Hai
Thời Công Phu
THÍCH NGUYÊN HÙNG
1. Từ
những lời cầu nguyện
Trong
Vinaya II, Tiểu phẩm (Cullavagga) có ghi lại sự
kiện những Tỳ-kheo sống trong rừng sâu bị rắn
độc cắn chết; Đức Phật hay được và nói, nếu các
Tỳ-kheo ấy đã rải tâm từ đến các loài rắn độc
thì nhất định đã không bị chúng gia hại. Rồi
Phật dạy bài kệ với nội dung là những lời ước
nguyện, mong cho tâm từ của hành giả lan đến
chúa tể các loài rắn độc, các sinh vật không
chân, hai chân và bốn chân; ước nguyện các sinh
loại đều được an lành, không làm hại Tỳ-kheo.
Nội dung những lời ước nguyện hay cầu nguyện ấy
được gọi là “hộ chú” (parittam).
Kinh
Tạp A-hàm cũng ghi lại trường hợp có những bà mẹ
có con trẻ thường hay khóc đêm, đem tới tu viện,
Đức Phật dạy các Tỳ-kheo tụng Pháp cú cho trẻ
nghe: “Nếu
ai biết Pháp cú, Tự mình hộ trì giới, Xa lìa sự
sát sanh, Nói thật, không nói dối, Tự bỏ điều
phi nghĩa, Giải thoát đường quỷ thần”.
Tụng xong, trẻ hết khóc, trở nên dễ nuôi, chóng
lớn! Những bài Pháp cú như thế cũng được xem như
là paritta hay thần chú.
Trong
Nikāya có ghi lại sự kiện tôn giả Angulimāla
trên đường đi khất thực gặp một sản phụ khó sinh,
đau đớn, nguy kịch, cầu cứu tôn giả, tôn giả
không biết giải quyết ra sao, bèn lập tức về tu
viện trình bày với Đức Phật. Phật dạy Angulimāla
đến đọc cho sản phụ ấy nghe một paritta, như là
câu thần chú cứu nguy, với nội dung: “Kể
từ khi Angulimāla tái sinh trong Thánh đạo này
chưa từng cố ý giết hại một sinh mạng nào, bằng
sự thực ấy, ước nguyện sản phụ sinh sản an toàn”.
Quả nhiên, sau khi tụng xong, người sản phụ nọ
được mẹ tròn con vuông.
Kinh
Ratanasuttam ghi: “Dù trong đời này hay đời
khác, hay trên thiên giới, không có tài bảo vi
diệu nào sánh với đức Như Lai. Ở đây, Phật là
tài bảo tối thắng vi diệu. Bằng sự thực này, ước
nguyện tất cả đều được an lành”.
Kể
trên là những lời kinh nguyện cầu. Rải rác trong
kinh điển Nikāya và Āgama đều thấy xuất hiện các
parittam hay hộ chú như thế. Những lời
kinh ấy đều diễn tả, nói lên sự thật hay chân lý
và được hiểu là chân ngôn. Chân ngôn là lời nói
chân thật, không hư dối, là phương tiện để diễn
đạt chân lý. “Chân lý là tính thể của sức
mạnh kỳ diệu; ai biết nương tựa chân lý, sống
với tâm tư hướng về chân lý, người ấy sống cuộc
sống an lành. Đó là tính thể của sự cầu nguyện”
(Tuệ Sỹ – Thiền và Bát nhã).
Những
Chân ngôn ấy về sau được tập hợp thành giáo pháp
của Kim cương thừa.
2.
Đến truyền thống Kim Cương Thừa
Kim cương thừa (vajrayāna)
hay Mật tông xuất hiện trong khoảng thế kỷ thứ 4
tại Bắc Ấn Độ, trở nên hưng thịnh từ đầu thế kỷ
thứ 6, đến giữa thế kỷ thứ 8 thì hình thành nên
một truyền thống lớn mạnh, được truyền qua
Tây Tạng,
Việt Nam,
Trung Quốc,
Nhật Bản,
Mông Cổ,
Nga…
và nhanh chóng gây ảnh hưởng trong các truyền
thống tông phái Phật giáo khác vốn đã có từ
trước.
Truyền thống này hình như đặc biệt có khuynh
hướng xem những lời Phật dạy như những điều
huyền bí, bởi tất cả những lời dạy của Phật đều
xuất phát từ cảnh giới nội chứng của pháp thân
Phật, gọi là mật giáo. Do đó, truyền thống này
chủ yếu sử dụng những Chân ngôn và phần lớn giữ
nguyên ngữ văn thánh điển Phạn ngữ để tăng thêm
giá trị bí mật, linh thiêng.
Chân
ngôn (mantra) cũng gọi là Đà-la-ni (dhāranī) hay
Thần chú. Theo Ðại Trí Ðộ Luận (Mahapra-jnaparanita-sastra)
thì: “Đà-la-ni có nghĩa là duy trì và ngăn
ngừa: duy trì là duy trì những thiện pháp không
để cho thất lạc, như một cái bình nguyên vẹn có
thể chứa nước không để nước rịn ra; ngăn ngừa là
ngăn ngừa những ác pháp không cho phát sinh, nếu
có khuynh hướng tạo tác tội ác thì ngăn ngừa
không cho tạo tác: đó là Đà-la-ni”.
Có
bốn loại Đà-la-ni, tức là bốn loại tổng trì:
pháp, nghĩa, chú và nhẫn. Pháp Đà-la-ni là duy
trì những điều học hỏi về Phật pháp, không cho
tán thất. Nghĩa Đà-la-ni là duy trì yếu nghĩa
của các giáo pháp không để cho quên mất. Chú
Đà-la-ni là duy trì các thần chú không để quên
mất. Nhẫn Đà-là-ni là an trú trong thực tướng
của vạn pháp không để tán loạn. Với ý nghĩa này,
truyền thống Kim cương thừa, mà đặc biệt là Mật
giáo ở Tây Tạng, đã thu nhiếp toàn bộ giáo pháp
của Phật, cả Tiểu thừa lẫn Đại thừa và duy trì
một cách khá trọn vẹn, điều mà các truyền thống
Phật giáo khác không làm được. Chính tính chất
dung hợp toàn bộ giáo pháp này mà truyền thống
Kim cương thừa có nhiều pháp môn tu tập bao gồm
cả Thiền – Tịnh – Mật. Đây chính là yếu tố làm
phát sinh bộ Thiền môn nhật tụng khi truyền
thống Kim cương thừa lớn mạnh ở Trung Hoa.
3. Và
hai thời công phu
Bộ Thiền
Môn Nhật Tụng gồm có hai quyển, không biết do ai
biên soạn và ấn hành lần đầu tiên vào năm nào.
Chỉ được biết có các bản in vào năm Đạo Quang
thứ 14 (1834) đời nhà Thanh, bản của chùa Dũng
Tuyền, Cổ Sơn, tỉnh Phúc Kiến in vào năm Quang
Tự thứ 12 (1886), đời nhà Thanh...
Nội
dung sách này, ngoài việc thu chép các pháp yếu,
pháp ngữ, cảnh sách, vấn đối, huấn hối văn...
của các Đại sư trong Thiền môn, còn thu chép một
lượng lớn Kinh, Luật, Kệ, nghi văn, thần chú...
thường dùng trong các chùa viện nói chung, mà
đặc biệt là nghi thức tụng niệm hai thời công
phu sáng và chiều :
Thời khóa buổi sáng gồm có:
- Thần chú Lăng Nghiêm
- Thần chú Ðại Bi Tâm
- Thần chú Như Ý Bảo Luân Vương
- Thần chú Tiêu Tai Cát Tường
- Thần chú Công Ðức Bảo Sơn
- Thần chú Chuẩn Ðề
- Thần chú Dược Sư Quán Ðỉnh
- Thần chú Quan Âm Linh Cảm
- Thần chú Thất Phật Diệt Tội
- Thần chú Vãng Sinh Tịnh Ðộ
- Thần chú Ðại Cát Tường Thiên Nữ
- Tâm kinh Bát Nhã
- Tán Phật
- Niệm Phật và Thánh chúng
- Tán lễ bổn sư
- Hồi Hướng
- Tam tự quy
Thời khóa buổi chiều gồm có:
- Thần Chú Đại Bi Tâm và Tâm kinh Bát Nhã
- Kinh A Di Đà
- Thần Chú Vãng Sanh Tịnh Độ
- Sám Hồng Danh, bao gồm:
+ Tán Dương Chư Phật
+ Quy Y Cả Tánh Và Tướng Tam Bảo
+ Phát Bồ Đề Tâm
+ Đảnh Lễ Tam Bảo
+ Lạy Phật
+ Sám Hối
+ Phát Lộ
+ Hướng Nguyện Theo Hạnh Nguyện Phổ Hiền
+ Hồi Hướng
- Văn Thí Thực
- Niệm Phật
- Tán Phật
- Niệm Phật
- Nguyện Sinh Cực Lạc
- Tán Lễ Bổn Tôn
- Cảnh Sách
- Tự Qui Y Tam Bảo
Hai
thời công phu như vậy, ngoại trừ Tán Phật, Niệm
Phật, Lạy Phật, Sám hối, Nguyện sinh Cực Lạc,
Hồi hướng và Tam tự quy, tất cả còn lại đều là
thần chú. Nhưng dù không phải là thần chú đi nữa,
tất cả những gì được biên soạn trong Thiền Môn
Nhật Tụng nói riêng, Tam tạng kinh điển nói
chung, Theo Mật tông đều được gọi là Chân ngôn
hay Đà-la-ni trong ý nghĩa của nó, hoặc là pháp,
hoặc là nghĩa, chú.
Cho
nên, có thể nói ngay rằng, hai thời công phu
không phải chịu sự ảnh hưởng của Mật giáo mà nó
là Mật giáo trong ý nghĩa mật giáo đã nêu trên,
hoặc là những lời cầu nguyện trong ý nghĩa một
paritta. Vấn đề là, người ta thực tập những lời
dạy ấy để hướng đến mục đích gì? Ở đây, hai thời
công phu, và cả những việc làm trong ngày, đối
với người xuất gia, đều hướng đến mục đích chí
nguyện "vì tuệ giác bồ đề mà cầu sinh Cực lạc".
Để biết thêm về ý này xin mời bạn đọc tham cứu
trong cuốn “Hai Thời Công Phu” do HT.
Thích Trí Quang dịch giải.
Ở đây,
chỉ xin nói thêm rằng, Mật giáo thịnh hành ở
Việt Nam từ những thế kỷ thứ 7, thậm chí còn sớm
hơn nữa. Và thuở ấy, có những vị Thiền sư đã sở
đắc từ một Đà-la-ni nào đó. Chẳng hạn Thiền sư
Pháp Thuận, Sùng Phạm, Từ Đạo Hạnh, Minh Không,
Vạn Hạnh… của Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi; Thiền
sư Không Lộ, Giác Hải… của Thiền phái Vô Ngôn
Thông; Thiền sư Lý Thánh Tông, Bát-nhã… của
Thiền phái Thảo Đường, đều là những người chứng
đắc từ những pháp Đà-la-ni và sử dụng năng lực
ấy để hộ quốc an dân.
Ngay
cả những Thiền sư của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử,
được coi là dòng thiền chính thống của Việt Nam,
cũng hành trì nghi lễ mật giáo. Như thiền sư
Huyền Quang đã chế tạo đài Cửu Phẩm Liên Hoa có
thể xoay vần trong khi niệm Phật và trì chú.
Thượng Hoàng Anh Tông, Văn Huệ Vương, Uy Huệ
Vương và nhiều người khác đã được thiền sư Pháp
Loa làm lễ quán đỉnh, một nghi lễ của mật giáo.
Tóm
lại, hai thời công phu là một tập hợp độc đáo
những phương pháp hành trì tu tập mà cuộc đời
người xuất gia, từ khi bắt đầu cho đến khi kết
thúc, nếu tinh tiến hành trì trọn vẹn, thì đã là
quá đẹp!
Thích Nguyên Hùng

|