SỐNG ĐỜI BÁT NHÃ
Trần Kiêm Đoàn
-
Pa... ra... mi... ta. Dạ, đúng rồi đó!
Pa-ra-mi-ta... có phải là ba la mật đa không
hở ba?
Ông bố
chỉ cần nghe tín hiệu “ba la mật đa” là đã cảm
thấy trí óc và toàn thân máy động như nhà vắng
lâu ngày có người tới gõ cửa. Từ cõi đời thường
phàm phu đầy hệ lụy, qua một nếp đời tâm linh
thánh thiện là cả một cuộc hành trình tinh thần
xa tít tắp đối với một ông giáo thời hưu trí.
Cái thông điệp trực tiếp đến từ bé Na, cô con
gái út ngỡ như bản chất Việt Nam trong cô chỉ
còn là tên gọi, càng làm cho ông ngạc nhiên hơn.
Mặc dầu bé Na đã khôn lớn, vừa ra trường bác sĩ,
nhưng lớp trẻ thuộc thế hệ Mỹ-Việt đầu tiên hầu
hết quan tâm đến những giá trị thực dụng hơn là
nếp suy tư mang vẻ triết học trừu tượng hay tôn
giáo siêu hình. Ông giáo sung sướng và ngạc
nhiên không hiểu vì sao cô con gái út, còn nằm
trong bụng mẹ ở Việt Nam, sinh ra ở trại cấm
Hồng Kông và lớn lên ở Mỹ, thời chưa vào đại học
y khoa, chẳng quan tâm gì đến vấn đề tôn giáo mà
nay lại hỏi đến cả Bát Nhã Tâm Kinh.
Ông
giáo gật đầu, nhưng trong lòng lại hoài nghi hơn
là khẳng định:
- Ừ, thì ba la
mật đa là một từ âm theo tiếng Tàu. Gốc
tiếng Phạn Pàramità có nghĩa là “đáo
bỉ ngạn” hay tới bờ bên kia đó mà.
Bé Na tỏ vẻ đồng
ý nhưng vẫn còn thắc mắc và nhận xét:
- Con
cũng biết vậy ba à. Nhưng cứ mỗi lần nghe ba đọc:
“ma ha bát nhã ba la mật đa tâm kinh...”
thì con cảm thấy nó có một vẻ gì nghiêm trọng,
to tát, huyền bí khó hiểu quá. Trong khi con
nhỏ Sonya Sandhah thì làm xong việc gì nó cũng
reo lên: “Paramita!” y như mấy bác mấy chú bạn
ba gọi là “Tới bến!” vậy đó.
Đến
lượt ông giáo thắc mắc:
- Sonya
là ai vậy con?
- Dạ,
nó là con nhỏ người Ấn Độ, bạn ở trọ cùng phòng
và cùng thực tập ở bệnh viện với con, nó có ghé
nhà mình chơi mấy lần mà ba đã gặp đó.
Im lặng
suy nghĩ một lát, ông giáo hỏi lại:
-
Paramita đúng là tiếng reo “Đạt rồi! Tới bến rồi!”
khi làm xong một điều trọng đại trong ngôn ngữ
cổ điển của Ấn Độ. Nhưng ba không hiểu tại sao
con bé ấy còn dùng; mà lại dùng thường xuyên cho
mọi chuyện lớn nhỏ trong đời sống thường ngày
nữa?
Cố nhớ
và vẽ lại nhân dáng của Sonya, bé Na mở rộng câu
chuyện theo trí nhớ và sự quan sát của mình:
- Cả
gia đình Sonya theo đạo Sikh. Đạo Sikh là một
tôn giáo phát sinh từ Ấn Độ vào thế kỷ 15. Theo
Sonya thì nó thấy lý thuyết của đạo Phật và đạo
Sikh có những điểm giống nhau về luân hồi, duyên
nghiệp. Nhưng khác với đạo Phật là đạo Sikh thờ
một Thượng Đế toàn năng, vô hình vô ảnh, ngự trị
toàn vũ trụ. Trong nhà, chỉ một mình Sonya tìm
hiểu và gần gũi với đạo Phật vì theo nó thì đức
Phật Thích Ca là vị giáo chủ hay bậc thầy đầu
tiên kéo con người ra khỏi bàn tay của một đấng
chúa tể ngự trị muôn loài mà không ai biết rõ là
ai. Người thì gọi là ông Trời, người gọi là
Ngọc Hoàng, người gọi là Thượng Đế... Sonya đã
nhiều lần nói lớn lên rằng: “Tự do tìm về với
chính mình là giải phóng được cho mình ra khỏi
sự ràng buộc của thần quyền.” Nó thích đạo Phật
là vì đạo Phật tôn trọng tự do tư tưởng của nó.
Mắt ông
giáo long lanh khi nhìn vào khuôn mặt thông minh
tươi trẻ của cô con gái út. Ông không ngờ thế
hệ trẻ của con cháu mình lại có đủ bản lĩnh tri
thức để nhìn về nếp sinh hoạt tâm linh một cách
độc lập và thẳng thắng đến như vậy. Ông giáo
cảm thấy tò mò và thú vị muốn nói chuyện với con
gái mình một cách thông thoáng như chuyện trò
với một người bạn:
- Na à,
vậy con đã được học Phật lúc nào và có chia sẻ
hay trao đổi gì với Sonya về vấn đề này không?
Bé Na
bụm miệng cười bí mật với bố già:
- Dạ,
có chút chút thôi ba ạ. Lúc đầu con chỉ lấy mấy
lớp căn bản Phật học ở khoa triết y của trường
để kiếm một số tín chỉ cần thiết cho năm học.
Nhưng
về sau, học thêm mấy lớp Yoga và phương pháp
hành Thiền chung với Sonya con đâm ra “ghiền”
ngồi thiền! Ba năm sau đó, con đã theo Sonya về
Ấn Độ, Nepal và Tây Tạng học phương pháp trị
liệu Đông y qua chương trình trao đổi sinh viên
Âu-Á trong suốt ba mùa Hè, nhưng thật sự là chỉ
học Phật và phương pháp tâm lý trị liệu theo
thiền học. Năm nào Ba cũng đưa đón hai đứa
con ở phi trường San Francisco đó, ba còn nhớ
không?
Ông
giáo xòe cả hai tay ra như để bắt lấy một ý lạ
vừa ở đâu rơi xuống:
-
Hử?! Sao con chẳng nói gì về chuyện học Phật,
ngồi thiền của con với ba hết?
Cười
thành tiếng, bé Na nói tiếp:
- Bộ ba
tưởng là con chỉ biết ngồi “ghiền” hay ngồi
“phiền” thôi à. Con chẳng biết tu hành cao siêu
gì cả nhưng ưa ngồi thiền như một cách tập thể
dục tinh thần ấy mà.
Với một
chút đăm chiêu, ông giáo hỏi:
- Thiền
định là việc trọng đại, lẽ nào tụi con lại xem
nhẹ, lấy làm chơi như một trò thể dục vậy kìa?
Bé Na
nhìn bố tròn xoe đôi mắt:
- Ơ!
Vậy là con nhỏ Sonya nói đúng rồi. Bố nó cũng
giống ba, cứ coi phương tiện là quan trọng làm
thước đo hềt thảy mà chẳng để ý đến kết quả hay
tác dụng của phương tiện đó. Tụi con thường gọi
ngồi thiền là “tập thể dục tinh thần” vì muốn
đạt kết quả là tập cho trí óc mình tươi mát
thoải mái, luyện cho lòng mình không bị buồn
phiền vướng víu với cả đống công chuyện hàng
ngày. Thế còn mấy thầy dạy học trò ngồi thiền
là để làm gì hở ba?
Hơi
lúng túng trước một ý thắc mắc rất thực tế của
con gái, ông giáo chỉ còn biết trả lời theo bài
bản:
- Thì
để tu trì cho được giải thoát.
- Giải
thoát là như thế nào ba hè?
- Là để
được chứng ngộ biết mình là ai, cắt đứt được mọi
ràng buộc phiền não, chuyển hóa lòng tham sân si
thành tâm thánh thiện.
- Dạ,
ba. Ngồi thiền chừng bao lâu mới đạt tới trạng
thái giải thoát như thế; mà ba đã có được những
lúc nào giải thoát vậy chưa ba?
Ông
giáo trả lời con gái như một sự thú nhận con
đường dài hun hút trước mắt mà ông đã trải qua
bao nhiêu ngày tháng kiếm tìm chưa gặp:
- Giải
thoát nhanh hay chậm là tùy duyên và tùy căn cơ
huân tập của mỗi người. Riêng ba thì đã giải
thoát đâu mà biết là trạng thái giải thoát nó
như thế nào.
Cô con
gái lại được dịp trêu ông bố thân thương:
- Vậy
thì con hơn ba là nhà mình có phúc rồi! Nhỏ
Sonya và con đều đồng ý và chia sẻ với nhau
rằng, giải thoát là bứt phá ra khỏi ràng buộc,
dính mắc. Mỗi phút nào tụi con lắng sâu vào việc
ngồi tĩnh tâm là thoáng được phút đó. Con tự cho
mình được “giải thoát” ra khỏi tù ngục của lo
lắng. Lúc đó con cảm thấy lòng mình an vui dễ
thương, trí óc tự do chạy nhảy tha hồ. Con không
lo, không buồn, không giận, không ghét ai cả.
Con vui quá vì biết mình đang sống và đang được
ngâm mình trong một biển hồ mênh mông trời đất
không sóng gió, không bon chen. Sau những phút
tĩnh tâm như thế, tụi con thường nhìn nhau mỉm
cười và reo lên nho nhỏ “paramita!” rồi đứa nào
có việc riêng đứa nấy, tiếp tục làm mọi chuyện
thường ngày của mình nhẹ nhàng và hăng hái hơn.
Ông
giáo đặt tay lên vai cô con gái và cảm động nói
bằng tất cả thương yêu:
- Con
giỏi lắm! Có vẻ như con đã có những phút “sống
đời bát nhã” rồi đó.
Cô con
gái nhìn bố, dò hỏi:
- Ba ơi!
Con đâu dám nhận những điều “trọng đại” như thế.
Ông bố
cười nhẹ, nửa như buồn cho mình mà nửa như vui
cho con:
- Hì,
hì! Nắm xôi có trọng đại với thằng Bờm hay không
thì phải làm thằng Bờm mới biết được. Nhưng con
nói đúng, thắng Bờm xử sự đúng thì ba phải nhận
đúng mới công bằng chớ. Ba và thế hệ lớn tuổi
của ba thường bị dính mắc vào hình tướng quá
nhiều. Luôn miệng nói “không chấp tướng” mà lại
tôn sùng những hình thức vật chất lễ nghi rình
rang rồi quên đi nội dung cần phải đạt. Nói
“không chấp ngã” mà lại cứ đặt bày, tạo dựng
những danh xưng, tước vị hình thức rôm rả; rồi
đua nhau xưng tụng, thổi phồng những cái tôi của
con ếch dưới đáy giếng lớn cho bằng con voi trên
rừng.
Cô con
gái bỗng dưng thấy mình gần gũi với bố già quá.
Bé Na rì rầm kể chuyện cho ba nghe...
Sự kiêu
hãnh về nề nếp phụ quyền trong gia đình và
truyền thống gia trưởng quá mạnh của thế hệ cha
anh đối với thế hệ trẻ Việt Nam đã khiến hai thế
hệ nhìn nhau sai lạc và xa cách. Thế hệ già
quen thấy cái tầm thường vĩ đại mà không thấy
được cái vĩ đại tầm thường như tuổi trẻ. Sonya
thấy được cái vĩ đại tầm thường. Nghĩa là cảm
nhận được cái bát nhã ba la trong từng hạt bụi;
và có khi thấy những biểu hiện mang vẻ hoành
tráng bên ngoài mà nội dung trống rỗng không
bằng một hạt bụi. Bé Na ngạc nhiên vì có những
lúc Sonya mỉm cười lặng lẽ một mình mà vẫn nói
bằng giọng hớn hở: “Paramita!”. Được hỏi, Sonya
trả lời rằng:
-
Cứ mỗi phút trôi qua là đã có trên cả trăm người
vừa mới chết, nghĩa là mỗi ngày có hơn 15 nghìn
người chết trên toàn thế giới này vì vòng quay
tự nhiên sinh, lão, bệnh, tử. Lúc nào thì
tới phiên bạn hay phiên mình hết thở, làm sao
biết được phải không? Nhưng chắc chắn là trong
mỗi nháy mắt, có biết bao nhiêu người chỉ thở
vào mà không thở ra được; hoặc có người thở ra
mà không thở vào được. Nay ta chỉ cần thở được
một hơi thở trọn vòng có vào, có ra là “tới
bến”, là paramita, là đáng reo vui rồi bạn nha.
Bé Na
đã có lần hỏi Sonya:
- Này,
sao trong ca mổ thực hành tháng trước bạn bị
đánh hỏng vì đã đọc nhầm hồ sơ bệnh lý hai của
bệnh nhân Việt Nam. Ca mổ của ông Nguyễn Văn
Thanh lại đưa qua trường hợp của ông Nguyễn Văn
Thành vì không đọc kỹ số hồ sơ bệnh lý. Vậy mà
khi cầm giấy báo đánh hỏng của trường, bạn cũng
có thể phớt lờ mỉm cười và réo “paramita” được
là thế nào vậy hả?
Sonya
thản nhiên kể:
- Thì
đúng rồi! Hỏng cũng phải tới “bến hỏng” chứ bộ.
Ông vua khi ngồi trên ngai vàng là “tới bến”
quyền lực. Nhưng khi bị lật đổ, phải đưa đầu
vào máy chém thì cũng “tới bến” trừng phạt.
Đúng và sai, đậu và hỏng, hơn và thua... đều
phải tới bến sau cùng. Mình làm sai, bị đánh
hỏng cũng phải tới cái bờ kết quả là hỏng chứ
chạy đi đâu cho thoát. Làm trật mà được kết quả
“đúng” là đi ngược. Mà đã đi ngược thì làm sao
tới bờ bên kia được hả bạn! Paramita là thản
nhiên, lặng lẽ về tới bến của mình và biết mình
đã tới đúng cái bến mà thuyền của mình chèo
tới. Phải reo lên “tới bến rồi” để biết mình
tới bến bạn à.
- Này
Sonya, vậy thì mỗi số phận con người chỉ có một
bến đợi để tới thôi sao?
- Có
muôn vạn bến bạn ơi! Số phận chỉ là một cách
nói buông xuôi chứ chẳng có ai đặt định trước
cho mình phải tới bến nào cả. Như bạn thấy đó,
cái bến của mình khi bước vào bệnh viện là làm
cho xong ca mổ của ông Nguyễn Văn Thanh chứ
không phải ông Nguyễn Văn Thành. Mình cứ yên
chí là có đủ bài bản, dụng cụ y khoa tốt như
bệnh viện New York thì mọi việc đều tốt nhưng
lại không dè chừng rằng, tiếng Việt của bạn còn
có dấu thanh lên xuống nên đã kiếm sai người.
Nhưng rồi cũng giống như thuyền đi gặp giông
bão, mình nhầm tên mà cứ yên chí mình là đúng
nên thuyền đã đi sai hướng. Kết quả là thuyền
chìm và mình hỏng. Thuyền chìm không biết
thuyền trưởng có vực dậy được để đi tiếp hay
không. Nhưng khi mình làm sai và biết rằng mình
hỏng nên đã “paramita” cho cái hỏng của mình
trong phút đó và hớn hở tìm hướng đúng để đi
tiếp cho đến khi “paramita” nhận bằng tốt nghiệp
bác sĩ một lần với bạn như hôm nay.
- Sonya
ơi, theo bạn thì “paramita” không phải là đã đến
bến bờ an vui tốt đẹp sau cùng sao?
- Chỉ
có Phật. Mà có đến hằng ha sa số chư phật – đó
là những sinh thể mang tính phật như bồ tát Quán
Tự Tại, chứ không phải chỉ riêng Phật Thích Ca
Gautama đâu nhé – là biết rõ mình đến bến an lạc
vĩnh hằng hay chưa. Phải có trí tuệ sáng ngời
của giác ngộ mới nhận ra được bến bờ vi diệu ấy.
Bé Na
làm sao quên được câu nói sau cùng của Sonya
trước khi chia tay về Ấn Độ:
- Hàng
ngày, một khắc sống tỉnh thức – nhìn biết được
tự tại để mở lòng an vui đón nhận – là đang sống
đời Bát Nhã. “Yết đế, yết đế, ba la yết đế,
ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha –
Gate, gate, paragate, parasamgate, bodhisvaha –
Tới bến, tới bến, tới bến rồi, hoàn toàn tới bến,
an lạc tuyệt vời!”
Ông giáo nhẹ nhàng dắt tay cô con gái út:
- Thôi, chiều rồi. Về nhà ăn Tết với
mẹ và gia đình con hỉ!
- Ba, đã tới Tết đâu?!
- Ừ. Thì mùa Xuân thiên nhiên mang
Tết lại cho đời; còn mùa Xuân trong ta mang Tết
đến cho ai mong cầu
được
sống đời bát nhã.
Sống đời bát nhã... Mùa Đông sắp qua
rồi mà cành phượng vỹ trơ xương rủ bóng nơi phía
chân cầu Trường Tiền vẫn còn nở dáng một cành
hoa của mùa Hè năm ngoái.
Trần Kiêm Đoàn
Natomas, Cali mùa Thanksgiving 2008
(Trích chương 9 trong
truyện dài Sống Đời Bát Nhã)

|